Neil Sheehan
Hoàng Anh dịch
Tạp chí Phương Đông giới thiệu tới bạn đọc bài viết của nhà báo Mỹ Neil Sheehan đăng trên báo New York Times tháng 5/2017, trong series bài nhìn lại cuộc chiến tranh ở Việt Nam vào năm 1967, một năm bản lề của cuộc chiến. Trong bài, tác giả đã sử dụng hình tượng chiến binh David bé nhỏ đối đầu với người khổng lồ Goliath để lý giải vì sao một cường quốc quân sự hàng đầu thế giới như Hoa Kỳ lại thất bại trước một đối thủ nhỏ bé hơn nhiều về tiềm lực như Việt Nam. Ngôn từ trong bài được giữ nguyên so với bản gốc để độc giả tham khảo.
Có những sự kiện chỉ có thể được hiểu bằng góc nhìn của thời gian. Cuộc chiến tranh ở Việt Nam là một ví dụ.
Ngày 21/6/1989, tôi được phỏng vấn một người đàn ông vóc dáng nhỏ nhắn với 4 ngôi sao trên cầu vai của chiếc áo quân phục màu xanh lá. Chúng tôi đang nói chuyện tại nơi từng là dinh thự của Toàn quyền Pháp ở Hà Nội thời thuộc địa. Người đàn ông đó là Đại tướng Võ Nguyên Giáp, thiên tài quân sự Việt Nam đã lãnh đạo đất nước ông đến chiến thắng, đầu tiên là chống lại âm mưu tái lập chế độ thuộc địa của Pháp sau Thế chiến II, sau đó là chống lại sức mạnh vô song của Hoa Kỳ khi sau đó Hoa Kỳ tìm cách chia cắt vĩnh viễn Việt Nam và lập nên một nhà nước chư hầu ở Sài Gòn.
“Những người lính Mỹ rất dũng cảm, nhưng dũng cảm thôi là chưa đủ”, Đại tướng Giáp nói. “David nhỏ bé giết được gã khổng lồ Goliath không chỉ bởi ông ấy dũng cảm. Ông nhìn lên Goliath và nhận ra rằng nếu ông dùng kiếm tấn công Goliath, hắn sẽ giết chết ông. Nhưng nếu ông nhặt một hòn đá và đặt vào ná, ông có thể bắn vào đầu Goliath, hạ gục và giết chết hắn. David đã sử dụng “cái đầu” khi chiến đấu với Goliath. Người Việt Nam chúng tôi cũng vậy khi phải chiến đấu với người Mỹ”.
Đối thủ người Mỹ của Tướng Giáp, Tướng William C. Westmoreland, chắc chắn rằng ông ta nắm trong tay công thức chiến thắng ở Việt Nam. Tướng Westmoreland dường như hội tụ tất cả những gì người ta mong muốn ở một vị tướng chỉ huy. Ông ta cao lớn, đẹp trai và ăn nói lưu loát. Ông đã chỉ huy một trung đoàn không quân chiến đấu xuất sắc trong Chiến tranh Triều Tiên, và đã thu hút sự chú ý của vị tướng được Tổng thống John F. Kennedy yêu mến, Maxwell D. Taylor. Dưới sự bảo trợ của Taylor, Tướng Westmoreland đã giành được quyền chỉ huy quân đội Mỹ tại Việt Nam.

Các chiến sĩ du kích miền Nam đang nghiên cứu bản đồ, chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân, Cà Mau năm 1968. Ảnh: Võ Anh Khánh (trích từ sách ‘Another Vietnam’ của Tim Page, xuất bản năm 2002)

Trẻ em Củ Chi tham gia làm chông tre bảo vệ vùng giải phóng, năm 1968. Ảnh: Pictures From History/Getty Images.
Tướng Westmoreland khoe khoang rằng ông ta sẽ vắt kiệt máu của người Việt Nam đến chết bằng cỗ máy giết người khổng lồ mà ông ta đang triển khai ở đất nước họ. Lính Bộ binh và Thủy quân Lục chiến được huấn luyện tinh nhuệ sẽ áp đảo người Việt Nam khi các phi đội trực thăng vận tải “gọn nhẹ” nhanh chóng đưa họ từ chiến trường này sang chiến trường khác với khả năng cơ động chưa từng có. Khi hạ cánh, họ sẽ được bảo vệ bởi một phi đội trực thăng thứ hai được trang bị súng máy bắn nhanh điều khiển bằng điện và các cụm tên lửa không đối đất 2,75 inch gắn ở hai bên. Họ mang theo cả đại bác, những khẩu lựu pháo 105 mm được treo bên dưới những chiếc trực thăng vận tải CH-47 “Chinook” to bè mà Quân đội Mỹ vừa mới phát triển.
Tướng Westmoreland cho xây dựng các sân bay ở khắp nơi. Một khi đặt chân xuống đất, quân đội Mỹ có thể triệu tập các cuộc tấn công không giới hạn bằng máy bay ném bom phản lực chất đầy bom, bom napalm và phốt pho trắng, những thứ có thể thiêu cháy da thịt con người. Không có giới hạn nào về mức độ chất nổ mà Hoa Kỳ sẽ sử dụng để hạ gục người Việt Nam. Những chiếc “pháo đài bay” B-52 tám động cơ của Bộ Tư lệnh Không quân Chiến lược, vốn được tạo ra để tàn phá Liên Xô bằng vũ khí hạt nhân, giờ đây sẽ tấn công người Việt Nam với sức mạnh tương đương nhất bằng ném bom thông thường – 20 tấn bom 500 pound (gần 230kg) được thả từ một máy bay duy nhất bay ở độ cao hơn 9.000m. Khi B-52 quần thảo, mặt đất rung chuyển trong bán kính hàng km.
Người Việt Nam quay về với pháo đài tự nhiên là đất đai của họ. Vào những năm 1960, bàn tay con người hầu như chưa chạm đến những ngọn núi thuộc dãy Trường Sơn, trải dài từ miền Bắc Việt Nam xuống tận vùng Tây Nguyên ở miền Nam. Dãy Trường Sơn khi đó vẫn còn là một vùng đất nguyên sơ với những đỉnh núi lẻ loi sừng sững và những rặng núi hiểm trở. Rừng mưa nhiệt đới với những loài cây lá rộng xanh tốt quanh năm cùng cây gỗ tếch và gỗ gụ bao phủ khắp nơi, ngoại trừ những bụi tre rậm rạp và những khoảng trống trong thung lũng phủ đầy cỏ voi cao ngất. Các cây tầng tán vươn cao đến gần 20m; bên dưới là tầng cây gỗ cao vừa, rồi đến lớp cây bụi thấp.
Bên dưới những tán cây, người Việt Nam tiến hành xây dựng các mạng lưới hầm trú ẩn kiên cố. Các hầm chính, nơi đặt bộ chỉ huy, được bảo vệ rất kỹ lưỡng – một lớp gỗ, một lớp đất, rồi tới các lớp gỗ và đất tiếp theo cao tới 2-3m. Để phá hủy một trong những căn hầm trú ẩn này cần phải đánh trúng trực tiếp bằng một quả bom 250 pound (hơn 110kg), một điều hiếm thấy trong thực tế. Các hầm nhỏ hơn được che chắn ở phía trên ít hơn nhưng vẫn đầy đủ và tất cả đều được nối với nhau bằng các chiến hào hình zíc zắc (một kiểu chiến hào giúp lính Việt Nam có thêm chỗ trú ẩn) đủ sâu để đứng lên và chiến đấu với quân Mỹ. Lính Mỹ ban đầu sẽ không biết đối thủ của mình đang ở đâu. Các đường bắn đã được dọn sạch, nhưng ngoài ra, bụi rậm vẫn được giữ nguyên để ngụy trang.

Lính Mỹ sục sạo một đường hầm bí mật của du kích miền Nam tại Quy Nhơn năm 1967. Ảnh: US Army
Khi lính Mỹ nhảy khỏi trực thăng, anh ta cũng phải đối mặt với một chiến binh được trang bị vũ khí ngang ngửa, hoặc thậm chí tốt hơn. Lính bộ binh Việt Nam sử dụng loại súng trường tấn công tốt nhất – AK-47. Loại vũ khí này là tác phẩm của một nhà thiết kế vũ khí tài ba của Liên Xô – Mikhail Kalashnikov. Nó hoàn toàn tự động và hiếm khi bị kẹt đạn, trái ngược với súng trường M-16 của Mỹ, vốn đòi hỏi phải vệ sinh liên tục để tránh bị kẹt đạn. Điểm hài hước chua chát của AK-47 là nếu bạn làm rơi súng xuống bùn, bạn có thể nhặt nó lên, đập vào cây để làm sạch bùn, và nó sẽ lại bắn được tiếp.
Súng chống tăng B-40 là một sản phẩm khác của kho vũ khí Liên Xô mà lính bộ binh Việt Nam sở hữu. Đầu đạn hình quả dứa ở đầu ống phóng có sức công phá và phân mảnh đáng gờm. Người Việt Nam cũng không thiếu những khẩu súng máy hạng nặng, được trang bị cho kíp chiến đấu.
Thông thường, phải mất ba ngày không kích và pháo kích mới có thể làm lộ ra các căn hầm trú ẩn, sau khi phá hủy cây cối và các vật che chắn khác ở phía trên. Đến lúc đó, những người Việt Nam sống sót đã kịp rời đi, mang theo hầu hết những người thiệt mạng và bị thương. Bất chấp tất cả sự bảo vệ từ các khu địa đạo, quân Việt Nam vẫn chịu thương vong nặng nề. Họ đã giảm thiểu tổn thất ở một mức độ nào đó bằng cách giành và giữ vững thế chủ động. Các nghiên cứu cho thấy trong 80 đến 90% thời gian, quân Việt Nam – chứ không phải quân Mỹ – mới là những người chủ động giao tranh hoặc quyết định chiến đấu vào một ngày khác. Nhưng không ai có thể chịu đựng được tất cả bạo lực mà người Mỹ gây ra mà không bị thương vong. Tuy nhiên, người Việt Nam đã chuẩn bị sẵn sàng để chấp nhận những thương vong này. Họ đang chiến đấu vì sự thống nhất và độc lập của Tổ quốc, trong khi lính Mỹ phục vụ trong một đội quân nửa cưỡng bách nhập ngũ nửa tình nguyện, chiến đấu trong một cuộc chiến tranh đế quốc cách xa quê hương hàng ngàn dặm.
Những “trận đánh trên đồi”, như người ta vẫn gọi, diễn ra trong suốt năm 1967 khi Tướng Giáp dụ Tướng Westmoreland vào hết trận đánh này đến trận đánh khác. Trận đánh kinh hoàng nhất xảy ra vào cuối tháng 11/1967 ở gần tiền đồn Đắk Tô, phía bắc tỉnh Kon Tum, Tây Nguyên. Nơi này được đặt tên là “Đồi 875” theo thông lệ quân sự là đặt tên cho một chiến trường theo chiều cao tính bằng mét. Đại tá Jonathan Ladd, thường được gọi là Fred, chỉ huy Lực lượng Đặc nhiệm Mỹ tại Việt Nam năm 1967, đã kể cho tác giả nghe về những chuyện đã xảy ra.
Fred có một doanh trại ở Đắk Tô. Nơi này bất ngờ bị pháo cối bắn phá. Lực lượng Đặc nhiệm khi đó gồm những lính đánh thuê là người dân tộc thiểu số ở miền núi, do các hạ sĩ quan Lục quân Hoa Kỳ dày dạn kinh nghiệm và khôn ngoan chỉ huy. Fred bay lên Đắk Tô từ sở chỉ huy của mình ở vùng biển Nha Trang và cử các đội tuần tra để xác định nguồn gốc của hỏa lực súng cối. Họ phát hiện ra rằng quân Việt Nam đã dựng thêm một cái “bẫy người” nữa trên Đồi 875 và các dãy núi liền kề. Những loạt súng cối giống như một lời mời gọi rùng rợn kéo quân Mỹ vào một cuộc chiến giành giật khu địa đạo. Khi đó, tướng Westmoreland đang có mặt ở Washington, được Tổng thống Lyndon Johnson sốt ruột gọi về để vực dậy sự ủng hộ của dư luận đối với cuộc chiến – vốn đang hao mòn dần bởi những con số thương vong khủng khiếp. Westmoreland kêu gọi sự kiên nhẫn. Ông ta đang trên đà chiến thắng. “Hồi kết đã bắt đầu hiện ra”, ông ta trấn an cả nước Mỹ trong bài phát biểu tại Câu lạc bộ Báo chí Quốc gia ở Washington.
Thuộc hạ của Tướng Westmoreland biết rõ ông ta muốn gì. Lữ đoàn Nhảy dù 173 được điều động đến Đắk Tô, cùng với các tiểu đoàn thuộc Sư đoàn Bộ binh 4 dưới quyền Thiếu tướng William R. Peers, một sĩ quan được kính trọng. Ngay khi Fred báo cáo tình hình, Tướng Peers tuyên bố sẽ mở một cuộc tấn công bằng trực thăng vào khu hầm trú ẩn. Fred đã cầu xin ông ta đừng làm vậy. “Lạy Chúa, Thiếu tướng, đừng đưa quân ta vào đó”, Fred nói, “Đó là điều bọn khốn đó muốn chúng ta làm. Chúng sẽ tàn sát quân ta. Nếu chúng muốn đánh nhau, hãy để chúng xuống đây, nơi chúng ta có thể giết chúng”.

Lính Mỹ thuộc Lữ đoàn Dù 173 chuẩn bị cho cuộc tấn công cuối cùng vào Đồi 875. Ảnh: Lưu trữ quốc gia Hoa Kỳ

Lữ đoàn Dù 173 của Mỹ chuyển thương binh lên trực thăng trong trận chiến Đắk Tô, tháng 11/1967. Ảnh: LIFE
Tướng Peers không nghe, vì ông ta đã thấm nhuần học thuyết của Westmoreland là “Tìm ra chúng, xử lý, đánh và tiêu diệt chúng”. Những người lính dù vừa xung phong lên dốc vừa hô vang “Airborne all the way”. Cuối cùng, 287 lính dù và bộ binh thuộc Sư đoàn 4 của Mỹ đã tử trận. Hơn 1.000 người khác bị thương. Và như thường lệ, khi trận chiến kết thúc, người Việt Nam đã biến mất.■

