Cuốn sách Chuyến thăm Hà Nội của Susan Sontag do Thư viện Nguyễn Văn Hưởng mua bản quyền và tổ chức biên dịch, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự Thật xuất bản tháng 2-2024.
Số trang: 167
Khổ: 12,5×20,5cm
Bìa mềm
Giá bìa: 149.000đ
Susan Sontag (16/1/1933 – 28/12/2004) là nhà văn, nhà phê bình, triết gia và nhà hoạt động chính trị người Mỹ, người được đánh giá là một trong những trí thức có ảnh hưởng nhất trong thế hệ của bà. Sontag viết nhiều tiểu luận về văn học, nhiếp ảnh, truyền thông, văn hóa, chiến tranh, bệnh tật, nhân quyền, và hệ tư tưởng tả khuynh. Các tác phẩm nổi tiếng nhất của bà bao gồm Against Interpretation (1966), On Photography[1] (1977), Illness as Metaphor (1978), The Way We Live Now (1986), The Volcano Lover (1992), In America (1999), và Regarding the Pain of Others[2] (2003).
Susan Sontag đã tham gia tích cực vào phong trào phản chiến ở Mỹ trong thập niên 1960. Tháng 1 năm 1968, cùng với hơn 500 nhà văn và nhà báo, Sontag ký vào bản cam kết “Không đóng thuế phục vụ Chiến tranh Việt Nam”. Tháng 5 năm 1968, Susan Sontag tới thăm miền Bắc Việt Nam và sau khi trở về, bà viết tiểu luận Trip to Hanoi (Chuyến thăm Hà Nội), xuất bản lần đầu trên Tạp chí Esquire, tháng 12 năm 1968.
Trái với hình dung của nhiều độc giả, trong Chuyến thăm Hà Nội, Susan Sontag không đi sâu miêu tả từng sự kiện, từng cảnh vật mà bà quan sát thấy ở miền Bắc Việt Nam, mà qua những trang viết đầy suy tưởng, những câu từ mang tầng tầng lớp lớp ý nghĩa, vừa cảm thông, vừa giễu nhại, bà như đang tự sự về tâm trạng ngổn ngang mâu thuẫn của mình khi được tiếp xúc với một Việt Nam bằng xương bằng thịt. Khi nhìn Việt Nam từ xa, Sontag viết: “Nhiều năm đọc sách báo và xem phim thời sự đã gom góp trong đầu tôi một tập hợp những hình ảnh hỗn tạp về Việt Nam: những xác người chết cháy vì bom napalm, những người dân đạp xe, những thôn xóm lều tranh mái lá, những thành phố bị san phẳng như Nam Định hay Phủ Lý, những hầm tăng-xê hình ống chỉ vừa đủ cho một người chui lọt nằm rải rác trên các vỉa hè Hà Nội, những chiếc mũ rơm dày mà các em học sinh thường đội để tránh bom bi”. Nhưng khi được đến thăm và trực tiếp chứng kiến, trải nghiệm cuộc sống ở Việt Nam, Sontag nhận thấy Việt Nam không nên chỉ được nhìn nhận giản đơn như một nạn nhân của đế quốc Mỹ, mà là một cộng đồng, một thế giới quá khác biệt với nước Mỹ về văn hóa, ngôn ngữ, tâm lý, tính cách, tư tưởng. Một mặt, qua lăng kính của Sontag, miền Bắc Việt Nam có những điểm khiến cho tác giả cảm thấy “ngột ngạt”, như “thái độ e dè của người Việt đối với tình dục và việc thể hiện tình cảm riêng tư”, hay “ai cũng nói chuyện theo cùng một kiểu, và nói những thứ giống hệt nhau. Ấn tượng này càng được củng cố khi mà chúng tôi đi đến đâu cũng được chào đón bằng những nghi thức lặp đi lặp lại”. Mặt khác, Việt Nam lại có những nét đẹp khiến tác giả “chết lặng”, “thẫn thờ” và “kinh ngạc”. Khi đến thăm ngôi mộ của một viên phi công Mỹ bị bắn rơi, “một ngôi mộ đắp cao được trang trí bằng những mảnh vụn động cơ máy bay và một phần cánh máy bay bẹp rúm, trông như một bức điêu khắc của Chamberlain”, Sontag đã phải thốt lên: “Làm sao những con người này, có vợ chồng, cha mẹ, con cái bị viên phi công ấy và các đồng đội của anh ta giết hại (sức tải của mỗi chiếc F-105 là bốn quả bom CBU31, có thể giết sạch mọi sinh vật không được che chắn trong phạm vi một cây số vuông), lại âm thầm cầm cuốc xẻng mà vun đắp một nấm mồ trang nhã cho viên phi công kia?… Liệu họ có thể thương xót anh không? Có tha thứ cho anh không?”
Susan Sontag đã dành nhiều trang viết để cố gắng lý giải những khác biệt, kỳ lạ, mâu thuẫn ở Việt Nam, trong sự đối chiếu với Mỹ và các nước phương Tây, hay với các quốc gia gần gũi về ý thức hệ như Cuba và Trung Quốc. Tuy vậy, điểm đặc biệt và cũng là điểm đáng quý của cuốn sách nằm ở chỗ tác giả không kết luận theo lối khen – chê thường thấy trong các tác phẩm du ký, mà coi chuyến thăm Hà Nội là một dịp để bà tự vấn về mình và về nước Mỹ. Chuyến thăm Hà Nội của Sontag thể hiện rõ cách tiếp cận vấn đề theo thuyết tương đối văn hóa, với lập luận rằng các đặc điểm văn hóa, xã hội của một cộng đồng là kết quả của hoàn cảnh lịch sử và môi trường cụ thể của cộng đồng đó, vì vậy khi đánh giá một nền văn hóa, ta cần nhìn nhận một cách tổng thể các thành tố kiến tạo nên nền văn hóa đó trong suốt chiều dài lịch sử và chấp nhận, tôn trọng sự khác biệt của họ thay vì phán xét và áp đặt các giá trị của mình.
Có thể nói, chuyến thăm Hà Nội là một hành trình tư tưởng của Susan Sontag. Nó khiến cho bà “không bao giờ có thể trở lại như trước được nữa”, và trong tâm trí bà, “cách mạng chỉ vừa mới bắt đầu” và sẽ còn tiếp diễn: “Trong những năm gần đây, Việt Nam đã ngự trị trong ý thức tôi như điển hình hoàn hảo cho nỗi khổ đau và ý chí anh hùng của “kẻ yếu”. Nhưng thực ra chính “kẻ mạnh” Hoa Kỳ mới là thứ ám ảnh tôi – những đường nét của sức mạnh Mỹ, sự tàn bạo kiểu Mỹ, tính tự dĩ vi thị của Mỹ. Để dần dần đối diện với những gì đang diễn ra ở Việt Nam, tôi đã phải quên đi nước Mỹ; thậm chí tham vọng hơn, phải tìm cách đẩy lùi ranh giới của ý thức hệ phương Tây vốn bao trùm và là ngọn nguồn ý thức hệ kiểu Mỹ của tôi”.
Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự Thật và Thư viện Nguyễn Văn Hưởng trân trọng giới thiệu với bạn đọc tiểu luận Chuyến thăm Hà Nội của Susan Sontag qua bản dịch của dịch giả Phan Xích Linh. Để độc giả hiểu thêm về bối cảnh nước Mỹ vào thời điểm cuốn sách ra đời và quan điểm của tác giả về những vấn đề nóng bỏng ở Mỹ thập niên 1960 như chính sách ngoại giao, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, các phong trào của thanh niên và trí thức, chúng tôi cũng in kèm một tiểu luận khác của Sontag mang tựa đề Chuyện gì đang diễn ra ở Mỹ, xuất bản lần đầu trên tạp chí Partisan Review năm 1967. Mong rằng qua đây độc giả sẽ có một hành trình thú vị trở lại miền Bắc Việt Nam thời chiến, đồng thời ghé thăm nước Mỹ và thế giới phương Tây trong những năm tháng đầy biến động.
[1] Cuốn sách này đã được xuất bản tại Việt Nam với tựa đề “Bàn về nhiếp ảnh”, Trịnh Lữ dịch, Phương Nam Book và Nhà xuất bản Thế Giới ấn hành năm 2018.
[2] Cuốn sách này đã được xuất bản tại Việt Nam với tựa đề “Trước nỗi đau của người khác”, Chu Đình Cương dịch, Nhà xuất bản Tri Thức ấn hành năm 2022.
TRÍCH ĐOẠN
“Chẳng hạn, tôi thấy một nhược điểm của người Bắc Việt là họ không đủ thù hằn. Chẳng có cách nào khác để giải thích cái sự thật kì cục là họ có vẻ khá thích nước Mĩ. Một trong những chủ đề lặp đi lặp lại trong các câu chuyện giữa chúng tôi với bác sĩ Phạm Ngọc Thạch là niềm ngưỡng mộ nhiệt thành của ông dành cho nền công nghệ và khoa học xuất sắc của Hoa Kì. (Đây là sự ngưỡng mộ đến từ một bộ trưởng, thành viên nội các của chính phủ một đất nước đang bị giày xéo bằng những loại vũ khí tàn ác hoàn hảo do chính nền công nghệ và khoa học ấy tạo ra). Và tôi ngờ rằng mức độ quan tâm và hiểu biết của người Việt đối với chính trị Hoa Kì – như tôi biết được khi trả lời một số câu hỏi của họ vào những ngày cuối về bầu cử sơ bộ ở Nebraska, về ảnh hưởng của Lindsay ở khu Harlem, và về phong trào cấp tiến của sinh viên Mĩ – không phải chỉ đến từ nhu cầu thực tiễn, một phần trong chính sách tìm hiểu về kẻ thù, mà bắt nguồn từ sự thích thú thành thực với nước Mĩ. Các cán bộ chính phủ và cán bộ chuyên trách có radio thường nghe đài Tiếng nói Hoa Kì VOA, và chắc họ cười khoái trá khi nghe cách người Mĩ nói về cuộc chiến: tuần này là chuyện VOA phủ nhận có giao tranh quân sự nghiêm trọng diễn ra ở Sài Gòn. Nhưng đồng thời họ cũng có vẻ tôn trọng các diễn biến chính trị ở Mĩ và thậm chí còn có chút cảm thông với những vấn đề nước Mĩ phải đối mặt trong vị thế cường quốc hàng đầu thế giới. Các thi sĩ đọc cho chúng tôi nghe những vần thơ về “Walt Whitman của các bạn” và “Edgar Allan Poe của các bạn”…
“Bởi lẽ mặc dù Bắc Việt không bao giờ thiếu các hoạt động tuyên truyền, thứ làm cho người ta tuyệt vọng là việc những phẩm chất đáng ngưỡng mộ nhất của xã hội được xây dựng từ năm 1954 lại được bộ máy tuyên giáo của họ truyền tải một cách nghèo nàn, vô cảm và thiếu thuyết phục. Bất kì ai tham khảo các ấn phẩm về Bắc Việt bằng tiếng Anh và tiếng Pháp (về giáo dục, y tế công cộng, vai trò mới của phụ nữ, văn học, tội ác chiến tranh, v.v.) của Nhà xuất bản Ngoại văn chẳng những sẽ không tìm thấy chút gì về kết cấu tinh tế của xã hội Bắc Việt, mà còn cầm chắc sẽ bị tính chất khoa trương, ồn ào và quá chung chung của các văn bản này làm cho có cái nhìn sai lệch. Khi chuyến thăm sắp kết thúc, tôi có đề cập với vài người trong chính phủ rằng những người nước ngoài đọc các sách vở và thông cáo báo chí này sẽ không thể hình dung ra Bắc Việt là như thế nào, và giải thích ấn tượng chung của tôi rằng cuộc cách mạng của họ đang bị chính ngôn ngữ của nó phản chủ. Dù những người Việt tôi cùng trò chuyện có vẻ ý thức được vấn đề – họ bảo rằng tôi không phải khách nước ngoài đầu tiên nói với họ điều này – tôi thấy họ còn lâu mới tìm ra cách giải quyết. (Tôi được biết ba năm trước Phạm Văn Đồng có một bài phát biểu phê bình “căn bệnh hoa mĩ” mà ông cho rằng đang lan tràn trong các cán bộ chính trị và kêu gọi “cải cách” tiếng Việt. Nhưng lời khuyên cụ thể duy nhất mà ông đưa ra là mọi người nên bớt nói về chính trị và dành nhiều thời gian hơn để đọc các tác phẩm văn học kinh điển của Việt Nam).”