Pierre Billotey
Lê Hằng Nga dịch
Cách đây gần 100 năm, tiểu thuyết gia người Pháp Pierre Billotey đã có loạt bài du ký về Việt Nam với tựa đề “Đông Dương quanh co”, được đăng trên các số tạp chí Les annales – politiques et littéraires (Biên niên sử – Chính trị và Văn học) năm 1928. Dưới ngòi bút của tác giả, Đông Dương hiện ra như tấm gương phản chiếu vẻ đẹp đầy cuốn hút giữa lòng Viễn Đông huyền bí. Tạp chí Phương Đông xin trích dịch và giới thiệu một số phần để độc giả cùng mường tượng lại những nét đẹp vừa thân quen lại vừa lạ lẫm ở các vùng miền trên đất nước ta thuở xưa.
1. Sài Gòn – hay tìm thấy nước Pháp lần nữa
Ngoài khơi mũi Saint Jacques (Vũng Tàu), con tàu dừng lại ở mỏm núi mà một trong ba đỉnh của nó có ngọn hải đăng. Tàu treo cờ, chờ thủy triều lên. Và rồi kìa – nó đang tiến vào sông Sài Gòn – nó đang tiến vào xứ Đông Dương.

Phía đông bao trùm một màu xanh lá thẫm, màu của rượu absinthe hay màu món súp đậu xanh nghiền. Hai bên là đồng bằng thấp trũng. Mỗi bờ chỉ là một dải đất mỏng màu đen nhạt, phủ đầy thứ cây rực rỡ mà không mấy đa dạng của rừng đước.
Đây đó, vài chiếc thuyền đánh cá neo đậu. Vài chiếc khác đậu sát bờ, trước những túp lều tranh, treo đầy những lá cờ ba màu. Tại sao ? – Tôi hỏi. Chắc hẳn là có đám cưới – người ta trả lời. Người bản xứ ở Nam Kỳ có thói quen cưới hỏi dưới màu cờ nước Pháp.
Con sông dần hẹp lại, uốn cong, chuyển sang màu vàng. Vệt sóng tàu rẽ thành những đợt sóng dài ánh vàng, phản chiếu ánh tím và xanh của nền trời lấp lánh thành những hình bầu dục đồng tâm. Con tàu Cap-Lay như kéo theo sau nó những chiếc đuôi công khổng lồ. Theo dòng nước, những đám lục bình trôi xuống, loài cây trôi nổi, hoa tím rất đẹp. Loài thực vật này không chỉ gây hại cho nông nghiệp mà còn là tai họa đối với giao thông đường thủy: nó có thể làm tê liệt cả chân vịt của những con tàu hơi nước mạnh nhất.
Từ đây, chỉ còn thấy những hàng đước và dừa nước thấp mọc ven bờ. Phía sau chúng trải ra những cánh đồng mênh mông mà vào đầu tháng 10 – khi mùa mưa ngớt dần – người ta có thể lầm tưởng đó là những bãi cỏ tuyệt đẹp. Không, đó là những cánh đồng lúa ở Nam Kỳ – tôi đã suýt nữa viết nhầm thành nước Ý, dưới thứ ánh sáng vừa rực rỡ vừa dịu dàng của buổi chiều tàn. Trên vùng đất phẳng mềm này, con sông – chen chúc đầy những xuồng tam bản và thuyền buồm – uốn lượn vẽ nên những khúc quanh ngày càng rối rắm.
Và rồi bỗng nhiên, từ phía xa xa, tôi thấy hai ngọn tháp của nhà thờ Sài Gòn dần hiện ra trong làn khói tím mờ của thành phố.

Suốt gần một tháng trời, khi người ta cảm thấy khoảng cách giữa mình và quê hương ngày một dài hơn, khi người ta đi từ biển này sang biển khác và ngày càng thấy rõ rằng thế giới là một vương quốc của người Anh thì vào lúc bất chợt trông thấy chuông nhà thờ kiểu Pháp, ấy là một điều khiến người ta bồi hồi tới mức không sao tả xiết.
Tàu đã cập bến. Màn đêm buông xuống. Côn trùng bay lượn trước ánh đèn điện chiếu sáng boong tàu. Sau khi nói những lời tạm biệt, cùng một chút xúc động, tôi lên bờ. Bốn tuần lênh đênh là quãng thời gian đủ dài để người ta kịp làm quen. Quả thật, sẽ đôi lúc tôi tiếc cái nhịp sống yên ả, dễ chịu trên con tàu lớn của hãng Chargeurs Réunis, mà ngay cả trong cơn bão tố cũng không lay động hơn chiếc tàu du lịch nhỏ trên sông Seine là bao.
Vài phút sau, tôi tản bộ trên đường Catinat: tôi đã tìm lại được nước Pháp. Đúng vậy, Sài Gòn là một thành phố lớn, thành phố kiểu Pháp xinh đẹp giữa vùng cây cỏ nhiệt đới. Tôi đã không mong đợi điều này đến thế.
Trên đường Catinat này, nối tiếp nhau không ngớt là những cửa hàng bày bán đủ mọi sản phẩm từ châu Âu, xen lẫn cửa hàng của người Malabar, người Hoa, người bản xứ. Nhưng ở nơi khác, nhất là trong khu vực rộng lớn mà người ta gọi là “Le Plateau”, những hàng phượng vĩ, tre, đủ loại cây cọ bao quanh nhà cửa và công sở. Và cả hoa! – những chùm hoa màu hồng rực rỡ của dây tigôn, giỏ hoa huệ cam, những vệt đỏ thắm của hoa dâm bụt, và cả những dây hoa giấy tím ngắt, hoa ken sát vào nhau thành những bó khổng lồ.

Cách đây chưa lâu (1859), những nhà chinh phục – các đô đốc, những người đã thực sự tạo nên Sài Gòn và Nam Kỳ – chỉ tìm thấy ở đây một vùng đầm lầy rộng lớn, bị những con rạch chia cắt, nơi chỉ có rải rác vài túp lều tranh. Trên tấm nền ấy, họ đã vẽ nên thành phố hiện tại. Thay cho những con rạch bị lấp là những đại lộ tuyệt đẹp đầy sức sống – các đại lộ Charner, Bonnard, Gallieni – và đại lộ Norodom gợi nhắc phần nào về đại lộ Bois của chúng ta. Nhưng cây cối ở đây mới kỳ vĩ làm sao! Me, tếch, sung và nhiều loại khác nữa, luôn luôn xanh tốt. Hiếm thấy con đường nào mà không có cây.
Sau khi chiêm ngưỡng các thành phố thuộc địa của người Anh, với những công trình vuông vức thô kệch, nặng nề vì kiêu hãnh, với những ngôi nhà bungalow dễ thương nhưng biệt lập và vị kỷ; thì quả thật là một cảm giác dễ chịu, như một sự chào đón tử tế, một cảm nhận về văn minh đích thực của vẻ nhã nhặn và đô thị hóa mà người ta có được ngay khi vừa đặt chân đến nơi đây!
Và nhộn nhịp làm sao! Ta bắt gặp những người Hoa trong chiếc quần trắng, người An Nam mặc áo dài đen bóng như sáp, người Malabar đội khăn xếp, hoặc thường hơn là mũ đỏ hoặc trắng, mặc váy cuốn đến tận mắt cá chân làm từ thứ vải sặc sỡ, kẻ ô. Tất cả đều đi chân đất, không trừ ai. Đúng vậy, ngay cả người bản xứ đi xe đạp hay lái ô tô cũng thế. Nghề làm giày hẳn chẳng phát đạt gì ở đây. Cũng chân trần, cô gái An Nam xinh đẹp kia, có thể là tiểu thư hay vợ của một nhà giàu có, đang ngồi chờ trước một cửa hàng trong chiếc xe hơi sang trọng mui trần, xe được chiếu sáng nhờ hai đóa hoa lớn lấp lánh, làm bằng pha lê tím và xanh biếc tỏa sáng.
Những chiếc ô tô!… nhiều vô kể! Hầu hết người Pháp sống ở đây đều có xe riêng. Nhiều người Hoa cũng có, thêm cả người bản xứ nữa. Còn xe kéo! Ở đây có cả một tập hợp “cu li kéo xe” sống và hoạt động nhộn nhịp. Đầu đội nón lá che khuất mắt, hoặc quấn khăn như băng đô. Họ mặc khi thì mỗi chiếc quần đùi đơn sơ, khi thì chiếc áo choàng vải, vừa chạy vừa len lỏi trên mặt đường giữa những chiếc xe to lớn, nhỏ con nhưng nhanh nhẹn, thỉnh thoảng lại bật lên tiếng kêu nhẹ để báo hiệu cho người đi bộ rằng họ sắp vụt qua.

Khi họ đứng chờ khách, hy vọng có người thuê mình, như trước quán cà phê de la Rotonde, ta có thể thấy họ ngồi xổm lạ kỳ bên mép vỉa hè, giữa 2 chiếc càng xe bằng tre, canh chừng người châu Âu nào đó mà họ đoán là sắp rời bàn cà phê. Không gì thú vị hơn là để mình được đưa đi vèo vèo trên những chiếc ghế gắn bánh xe này. Bạn biết không, chúng có lắp cả lốp cao su đấy! Dĩ nhiên, thỉnh thoảng bánh xe cũng bị xẹp, khi này, người kéo xe tiu nghỉu, cúi đầu buồn bã, lầm lũi kéo xe về bãi. Nhưng cũng đừng vội thương mấy anh kéo xe quá. Họ kiếm sống khá ổn, và nếu một triết gia nhân đạo nào đó định “xóa bỏ” nghề này, thì sẽ phải tự tay lo giải quyết đống rắc rối trước tiên.
Trong dòng xe cộ hỗn tạp giữa ô tô và xe kéo, thỉnh thoảng xuất hiện một chiếc xe bò kéo bởi đôi bò bé xíu, hoặc một cỗ xe Malabar (xe thổ mộ) – kiểu xe kì quái bằng gỗ bóng loáng, bốn bánh, giống như những cỗ xe ngựa cổ thời xưa bên Pháp.
Đi ngang qua bạn là những người Pháp mặc complet vải trắng hoặc xám, những anh xe kéo cởi trần, những thư ký hay viên chức bản xứ ăn mặc còn chải chuốt hơn bạn, và những người phụ nữ mặc áo dài lụa thướt tha, quần lụa đen, hơi nghiêng mình, địu con trên hông. Đường phố Sài Gòn là một sân khấu sống động và vui nhộn không ngừng, nhất là sau khi ông mặt trời đi ngủ. Nhưng đừng mong tìm thấy ở đây con ngựa hoang mà một nữ tiểu thuyết gia đã tưởng tượng quá sức khi để nhân vật nữ chính của mình phi trên đường. Cả Sài Gòn vẫn còn cười về chuyện ấy.
Trước mắt ta, chỉ trong khoảnh khắc, có đến trăm điều tương phản hiện ra, vậy mà tất cả lại hòa quyện với nhau một cách tuyệt vời, tạo thành một ấn tượng khó diễn tả, nhưng lại cảm nhận rất rõ ràng. Ta nhận ra tất cả vẻ quyến rũ của một thành phố kiểu Pháp – một thành phố lớn của tỉnh – nằm dưới bầu trời Viễn Đông, giữa vẻ lộng lẫy của thảm thực vật kỳ diệu, và trong sự đa dạng kỳ lạ của các chủng tộc cùng tồn tại nơi đây.
Từ cửa sổ căn hộ của tôi – tròn như những ô cửa sổ lớn trên tàu – tôi nhìn thấy bãi cỏ xanh ngắt, những lối đi có nền đất đỏ, những cây cọ tuyệt đẹp, những bụi tre cao đến hơn hai chục mét. Trong khi đó, cơn giông bắt đầu rền vang, cơn giông thường ngày của mùa này. Một chiếc cầu vồng đôi hiện ra trên nền mây dày đặc, nơi những tia chớp không ngừng lóe lên khắp bầu trời.
Giữa công viên Monceau của vùng nhiệt đới này là tòa dinh toàn quyền, trang trọng và thanh lịch. Đây chắn chắn là công trình kiến trúc thuộc địa đẹp nhất toàn xứ Đông Dương. Tôi thích những bậc thềm rộng lớn, những gian phòng cao vút, những hành lang quanh co đầy bí ẩn, và hai dãy hành lang dài nơi ta có thể phóng tầm mắt nhìn ra toàn thành phố. Ở đó, người ta có cảm giác như đang đứng trên boong một con tàu – cảm giác ấy cho thấy đây thực sự là công trình do những người thủy thủ, các đô đốc hải quân, xây dựng nên. Người ta thu xếp cho tôi ở trong một cánh của tòa lâu đài dễ chịu này vài ngày trước khi khởi hành tới Hà Nội, Thượng du Bắc Kỳ, có thể là sang cả Trung Quốc, và chắc hẳn là sẽ tới đất Lào đầy huyền bí, nơi mà ngay cả ở đây cũng ít người biết rõ, và tôi nghe mô tả là một nơi khó tiếp cận vô cùng.
Ngay những giờ đầu tiên, tôi đã gặp người đồng hành của mình, một người bạn, ông H… trước từng là Tổng Biên tập của một tờ báo lớn ở Paris, nay đang điều hành một trong những tờ báo quan trọng nhất ở Đông Dương. Cùng nhà quan sát sắc sảo và hiểu biết này, tôi đã khám phá Sài Gòn – cả bến cảng và những đại lộ, các cửa hàng, những tòa nhà mới xây, những nhà máy tỏa khói ở vùng ngoại ô; và thậm chí là cả một nhà để xe rộng lớn, được trang bị khéo léo đến mức có lẽ ở Paris cũng khó tìm thấy nơi tương tự.
– Thế nào! – người bạn dẫn đường vừa đi vừa cười – Anh đâu có ngờ phải không ?
– Thật tình thì không. Sài Gòn đúng là một thành phố rất hiện đại.
– Khi Tử tước Northcliffe tới đây, ông ấy cũng kinh ngạc chẳng khác gì anh, dù ông ấy đã đi vòng quanh thế giới.
Ông ấy đã thốt lên rằng một thành phố được xây dựng nhanh chóng và tốt đẹp thế này thì xứng đáng được ngả mũ cúi chào. Lời tán dương từ một người am hiểu như thế quả thực xứng đáng vô cùng.
Tôi đã nhiều lần, cả ngày lẫn đêm, cùng với ông H… dạo chơi Chợ Lớn. Thành phố người Hoa này nằm kế bên như một phần mở rộng của Sài Gòn, ai mà chưa từng nghe tới, nhất là sau khi Roland Dorgèles đã mô tả nó thật hay? Nhưng có lẽ chính Dorgèles, người đã đánh giá Loti là quá thi vị hóa mọi thứ, cũng thi vị hóa Chợ Lớn – nơi thực chất giống xã Levallois – Perret đông đúc buôn bán, chỉ khác là cư dân toàn người Hoa – những người Hoa rất dễ mến, luôn tươi cười, hiền hòa, nghiêm trang; và dù không phải ai cũng thật thà nhưng ít ra họ cũng biết cách làm ra vẻ như vậy.
Chợ Lớn sạch sẽ, không có mùi khó chịu, cũng không hoàn toàn mang dáng dấp của một thành phố Trung Hoa. Chỉ cần từng lang thang trong những con hẻm ở Singapore, giữa những túp lều ẩm mốc là thấy sự khác biệt và nhận ra rằng Chợ Lớn đã được “Pháp hóa” phần nào. Trên hết, đó là một thành phố công nghiệp và buôn bán lớn. Và chính hoạt động thương mại của nó, thông qua cảng Sài Gòn, đã góp phần không nhỏ giúp nơi đây – xin cho phép tôi được diễn đạt như sau – giống như cảng lớn thứ sáu ở Pháp, đứng ngay sau cảng Rouen.

Điều đó không có nghĩa là Chợ Lớn không có đời sống bí ẩn riêng với những truyền thuyết kỳ lạ, rùng rợn. Hãy nhỏ tiếng thôi. Hãy để nó giữ lại cho mình bí ẩn cuối cùng. Những ông hoàng Trung Hoa trong giới lúa gạo, tôi sẽ không tiết lộ những bữa tiệc trác táng của các ngài đâu…
2. Hoa hồng Đà Lạt
Tôi lên đường. Trước mắt tôi là 1.800 cây số con đường nối liền Sài Gòn với Hà Nội. Chuyện đó không có gì cả. Không đáng kể, vì con đường này đã có biết bao người đi trước tôi rồi.
Chính quyền cho tôi mượn một chiếc xe hơi rất tốt, kèm theo một tài xế dày dạn kinh nghiệm. Thế là, hoàn toàn thảnh thơi, chỉ một mình tôi với cảnh vật, tôi sắp thực hiện một chuyến du ngoạn tuyệt vời xuyên xứ Trung Kỳ tới tận Bắc Kỳ!
Nhưng ngay trước ngày khởi hành, người ta giới thiệu tôi với một ông rất dễ mến, vừa mới đến đây vài tiếng, cũng muốn đi Hà Nội.
– Nhìn xem này – ông ta nói với tôi – tôi nhỏ người, sẽ không chiếm nhiều chỗ đâu. Và đối với một chuyến đi dài như này, phải chăng sẽ tốt hơn nếu có một người bạn đồng hành?
Ông ấy nói thêm là mình quen một vài người trong gia đình tôi, rồi đặt tay lên ngực thề rằng được đi cùng tôi sẽ là niềm vui không bao giờ quên đối với ông ta.
Rồi ông ta kể thêm một vài chi tiết. Bằng giọng Gascon, ông khẳng định mình là người xứ Basque, tên là Sigognac.
Chỉ cần vậy là tôi đã quyết định. Sáng hôm sau, tôi cho xe đến đón ông ta. Đến khi xe quay lại, tôi đã suýt nữa từ bỏ ý định bước vào trong. Gã láu cá Sigognac đã chất đầy hành lý lên xe, của cô em họ đáng yêu của ông ta, và cả cô ấy nữa! Tạ ơn trời đất tôi vẫn chen được chỗ ngồi bên cạnh bác tài.
Những ký ức đầu tiên trên đường khởi hành làm tôi nhớ nhất là nhìn thấy các làng của An Nam mà tôi đi qua. Tất cả đều giống nhau: những căn nhà tường trắng, chỉ một tầng, những nhà lợp lá. Nhưng quan trọng nhất vẫn là chợ – những chợ lớn có mái che mà chính quyền xây cho dân bản xứ. Họ bán hàng, ăn uống, trò chuyện suốt ngày đêm ở đó. Người thì ngủ, người thì nói chuyện ầm ĩ; rồi người đang ngủ thức dậy thay thế người đang nói, cứ thế tiếp nối nhau. Ôi, ồn ào quá sức. Nhân tiện nói luôn, trên đời này khó tìm được ai lắm lời bằng phụ nữ An Nam.
Mấy hôm trước, lúc đi dọc sông về Sài Gòn, tôi đã nhìn thấy những cánh đồng lúa rộng mênh mông – tài sản lớn nhất của Nam Kỳ. Giờ đây, trước mắt tôi xuất hiện những đồn điền cao su – nguồn của cải lớn thứ hai. Cây cao su trồng thẳng tắp tới tận chân trời, trên mỗi thân cây treo một cái chén hứng nhựa trắng chảy ra – loại mủ sẽ đem lại tiền lãi cho biết bao cổ đông. Thỉnh thoảng, có thể thấy một người bản xứ đi dọc các hàng cây, đổ mủ vào xô.

Và rồi là khu rừng khổng lồ. Thân cây rãnh dọc như cột nhà thờ, màu xám như đá; tán cây tầng tầng lớp lớp ở độ cao không tưởng. Tre thì cong oằn, vắt ngang đường như những chiếc cầu. Dây leo, bụi rậm, cả một biển thực vật lấp đầy mọi khoảng trống – tạo thành hai bức tường xanh thẫm rực rỡ, che kín hoàn toàn tầm nhìn hai bên.
Đó là rừng ở miền Nam An Nam, thỉnh thoảng lác đác mới có một khoảng trống khai phá. Người ta bảo ở đây có bò rừng, voi, tê giác, cọp… Tôi tin thế. Nhưng tôi chỉ thấy vài con bồ câu và một con thằn lằn khổng lồ, đang phơi nắng trên đường, ngẩng cái đầu dẹp nhọn ngộ nghĩnh.
Ôi, biết bao con sông! Trước mỗi cây cầu bắc qua sông, đều có biển báo: “Cẩn thận, cầu nguy hiểm”. Những tấm ván không cố định nảy lên dưới bánh xe, phát ra tiếng lách cách như bộ phách Castanet. Có khoảng 14 – 15 chiếc cầu kiểu đó liên tiếp nhau. Nhưng cũng không đến nỗi vì chẳng cái nào sập cả…

Cây cối thưa dần, biến mất. Xa xa bên trái, những dãy núi màu tím in trên bầu trời xanh nhạt như pha lê. Và chúng tôi tới Phan Thiết. Hôm trước có người bảo tôi: “Phan Thiết ? Chẳng có gì hay ho đâu”. Nhưng sự thật rằng, Phan Thiết khiến tôi đầy thích thú, trước hết bởi nhịp sống An Nam nhộn nhịp, và hơn nữa, đây là một cảng biển.
Một con sông rộng và ánh vàng chảy qua thành phố trước khi đổ ra biển, chật kín hàng trăm chiếc thuyền đánh cá, to lớn, xám xịt, với một hai cột buồm nghiêng ngả. Ven bờ biển cũng đầy thuyền chòng chành trên sóng. Xa hơn chút nữa, ở thượng nguồn, những chiếc xuồng tam bản chen chúc nhau sát rạt.
Đêm xuống, tôi thấy trong mỗi xuồng, dưới lớp chiếu che cong như chiếc nôi, một ngọn đèn dầu bừng sáng – ánh sáng đỏ hắt lên, lờ mờ soi bóng cả gia đình sống chen chúc trong vài tấm ván, dưới mái cong thấp lè tè.
Có một điều tuy vô hình nhưng tô điểm cho đặc trưng của Phan Thiết: mùi bốc lên từ các xưởng làm nước mắm – thứ gia vị quốc hồn quốc túy của người An Nam. Một vài người Âu thấy thích nước mắm, nhưng số khác thì mỉa mai gọi là “nước cốt cá thối”. Mà quả thật, đó là lý do tại sao khi ta đi dạo bên bờ sông Phan Thiết thì phải vừa đi vừa bịt mũi thật chặt.

Sáng sớm hôm sau, chúng tôi lại lên đường. Sigognac để lại những hành lý nặng nhất và cô em họ của mình ở Phan Thiết. Quay lưng lại với biển, chúng tôi tiến về phía núi đồi, và chẳng mấy chốc lại lạc vào biển rừng bất tận. Lần này, con đường bắt đầu leo lên núi, dần dần băng qua đá và đất đỏ rực – thứ đất có màu tựa đỏ Venice đến tím sẫm – để lại giữa nền xanh tươi chói lọi của núi rừng một vệt sẹo đỏ tươi rói. Đường bám lấy vách núi ngoằn ngoèo uốn lượn như rắn giữa những cây khổng lồ – những loại không sao gọi tên, to lớn gấp mấy lần cây cối chúng ta từng thấy. Trên cành cao, vẹt ríu rít, chim xanh như men sứ và bồ câu xám bay vụt trước mũi xe.

Nhiều lần, chúng tôi gặp những đoàn người Mọi. Họ không mặc quần áo, chỉ đeo một sợi dây nhỏ quanh hông treo theo một mảnh vải bé xíu. Đa phần những người phụ nữ không mặc như vậy, họ không mặc gì ngoài đeo một chiếc gùi trên lưng. Và tôi để ý rằng, rất nhiều người, đặc biệt là những cô gái trẻ, dù có làn da màu chocolat nhưng vòng một không kém phần đẹp đẽ. Đàn ông, như những sinh vật thời tiền sử, đi hàng một, tay cầm giáo, vai đeo cung. Từ Phan Thiết tới đây, lẽ nào chúng tôi đã quay lại 6.000 năm trước? Sau này, có người nói với tôi khi trò chuyện về người Mọi ở xứ này:
– Đừng sợ những người Mọi ở đây. Họ không ưa người An Nam lắm, họ có lý do cho thái độ ấy. Với người Pháp, họ đối xử khá tốt, chỉ yêu cầu tôn trọng phong tục và những người phụ nữ của họ.
– Thế cơ à! – tôi mơ màng thốt lên – Vậy mà họ để phụ nữ cứ mặc thời trang tự nhiên như thế sao?
Rừng, nối tiếp lại rừng… Thỉnh thoảng, trên sườn núi, có những ngôi làng nhỏ với nhà sàn tre nứa lợp lá, như những chiếc chuồng chim khổng lồ. Làng có hàng rào bao quanh, và trâu đen với những cặp sừng to, tròn uốn khúc, thong dong gặm cỏ bên ngoài.
Giờ đây những loài cây nhiệt đới xa lạ đã biến mất. Ở độ cao này, người ta hầu như chỉ gặp những cây thông uy nghi hệt như những cây trên dãy Pyrénées ở quê tôi. Nhưng ở đó, rừng thông luôn mang vẻ buồn bã, gần như chết chóc. Chúng lặng lẽ. Mặt đất phủ một lớp lá kim úa màu gỉ sét. Trái lại, ở đây, cả một hệ thực vật phong phú chen chúc giữa các thân cây vỏ nứt nẻ. Những chùm hoa đỏ rực nở rộ trong các bụi rậm. Tất cả đều sống động. Chim chóc bay lượn, hót vang, các cành cây lay động mà ta không rõ nguyên nhân. Ngay ở gần, phía dưới kia là dòng suối chảy. Xa hơn nữa, một thác nước – cả một dòng sông – từ lòng đá cao bị gãy đổ ầm ầm xuống vực sâu. Đây là Đà Lạt, Đà Lạt nổi tiếng và được ca ngợi nhiều. Sau bao cảnh đẹp vừa mới lạ với tôi, thành phố nghỉ dưỡng non trẻ này- với khách sạn sang trọng, những căn biệt thự, hồ nước và cao nguyên nhìn về phía tây mà dãy núi Lang Biang bao bọc – lại không khiến tôi xúc động: tôi đã từng thấy điều tương tự, hoặc gần giống thế ở Font – Romeu hay ở vùng Savoie…
Thử nghĩ mà xem: Đà Lạt là trạm nghỉ dưỡng trên cao vô cùng quý giá, nơi người châu Âu, nhất là phụ nữ và trẻ em, vốn xanh xao, đôi khi gần như kiệt sức vì thời tiết nóng ẩm của vùng Nam Kỳ và duyên hải Trung Kỳ đến để phục hồi sức khỏe nhờ không khí trong lành mát mẻ nơi đây.
Nhưng điều làm cho ta – nhà du hành – ngạc nhiên không chỉ từ việc ta cảm nhận không khí lạnh sau khi chịu cái nóng như thiêu. Đúng hơn là sự tương phản chói ngời: suốt hàng giờ liền, ta cứ tiến sâu vào rừng nguyên sinh, vào núi non hoang sơ. Ta gặp những người nguyên thủy, hoang dã, trần truồng, những thợ săn thời đồ đá cũ, mang theo giáo, cung tên và mũi tên tẩm độc. Rồi đột nhiên, trước mặt ta hiện ra một khách sạn tráng lệ như ở Cannes hay Briarritz, nơi các bồi bàn mặc lễ phục màu đen phục vụ ta bữa trưa trong một phòng ăn cực kỳ hiện đại.
– Dù muốn hay không – giám đốc khách sạn khẳng định với tôi – Đà Lạt sẽ là thủ đô của Liên bang Đông Dương. Có phải thật điên rồ khi chọn Hà Nội làm thủ đô – nơi quá xa trung tâm, quá gần Trung Quốc?
Ý kiến ấy làm tôi mỉm cười. Tôi nghĩ rằng vị giám đốc này đang nói như một người điều hành khách sạn giỏi – giống như ông Josse từng nói như một thợ kim hoàn. Nhưng sau đó, ngay tại Hà Nội, tôi đã nghe một trong những quan chức cấp cao nhất của thuộc địa phát biểu y như vậy. Và lần này, tôi không mỉm cười. Vì tôi nhận ra trong đó là dấu hiệu và khao khát đầu hàng, là sự từ bỏ một khát vọng lớn. Vào năm 1902, một thống đốc quyết định chọn Hà Nội làm thủ đô, ông bắt đầu thực hiện công trình phi thường gọi là tuyến đường sắt Vân Nam vì ông tin chắc rằng Vân Nam và hai tỉnh Quảng Tây, Quảng Đông sớm muộn gì cũng trở thành một phần của Đông Dương.
Người bạn đồng hành của tôi, Sigognac, chen ngang cuộc trò chuyện. Trỏ đến các bức tường, ông ta ám chỉ rằng chúng sẽ đẹp mắt hơn nếu có những bức tranh trang trí lớn phủ bên trên; vẽ bằng nghệ thuật tuyệt vời mà ông Sigognac tự cho rằng mình có khả năng tạo ra.
– Chuyện đó chưa cần gấp đâu, – vị giám đốc đáp lại. Rồi vừa nói, ông vừa quay người về phía cửa sổ lớn đang mở toang – nhưng mà, này, anh có thấy không, phía đằng kia, cái đỉnh núi trọc trông như cái bánh mì hình nón kia, cao đến hai nghìn mét ấy? Nếu có thể sơn trắng nó lên, chắc hẳn sẽ khiến mấy vị khách trọ của tôi có ảo giác là đang nhìn thấy tuyết…
Điều làm tôi ngạc nhiên nhất khi đến Đà Lạt không phải là việc bắt gặp một thành phố mới chớm hình thành ở độ cao 1.500 mét, giữa một vùng đất dữ tợn, hẻo lánh, biệt lập, và cũng không phải – dù tôi xấu hổ khi nghĩ đến – là hình dung bao nỗ lực phi thường đã phải bỏ ra để có được tất cả những gì tôi nhìn thấy ở đây. Không, sau hàng trăm cây số băng rừng, vượt qua khu rừng hùng vĩ đến mức ngột ngạt, điều khiến lòng tôi bất chợt vui sướng chính là tôi bắt gặp một điều mong manh, bất ngờ giữa chốn này: những bụi hồng trổ đầy hoa, và những bông hồng thơm ngát.■ (Còn nữa)

