Trong bài viết đăng trên “Đông Dương Tạp chí” số 32 ngày 18/12/1937, nhà báo Nguyễn Văn Vĩnh đã phê phán nạn hối lộ và tham nhũng đương thời với “thiên hình vạn trạng” khác nhau, nhưng sau cùng người phải gánh chịu vẫn là những người “dân quê An Nam chất phác”.
*
Trong nước này, có cả một đạo binh đông đúc những thầy cò đi kiếm việc hộ cho những quan lại hoặc công chức tham nhũng, và cho cả những phòng luật sư nữa. Đối với con mắt người dân quê An Nam chất phác, bọn thầy cò này là một bọn người thừa hành pháp luật theo một lề lối đặc biệt mà người Tây phương không bao giờ ngờ được, vì đối với người Tây phương, đã gọi là thừa hành pháp luật thì lẽ tự nhiên ai cũng đều tận tâm bênh vực cho lẽ phải cả.
Người dân quê An Nam lấy làm rứt khó hiểu làm sao lại cần phải có một ông tai to mặt lớn lấy tiền của sự chủ rồi mới thay mặt họ đem những lý lẽ bày tỏ được đắc thế trước tòa án; bởi vì đối với họ, đã có ông quan án xử án thì ông quan án tất phải là người minh mẫn, tự một mình mình cũng đủ phân phải trái được. Nếu trong việc xử kiện, ông quan án thế nào cũng phải nhờ có ông thầy kiện chỉ bảo cho lẽ phải mới xử được công bình, thì có phải rõ rằng ông thầy kiện lấy tiền của một người rồi biện hộ người đó, thì ông thầy kiện tức là một ông quan án đã được luật pháp cho phép đem tài trí và thanh thế ra buôn bán rồi không? Tóm lại một câu, đó là một nghề không thể dung thứ được, đối với cái óc dung dị của người dân An Nam xưa nay vẫn quen coi sự thực hành công lý như một việc mà người thực hành, đúng lý ra, không được nhận tiền của ai cả. Cho nên khi một người có việc phải đi thưa kiện mà lại mất tiền, thì dẫu cho cái việc của người đó có khó khăn và đáng phải trả tiền công thật đi nữa, tiền công đó cũng liền bị coi là một thứ bổng lộc phi pháp ngay. Chính đó là một nguyên nhân làm cho dân An Nam bảo rằng những ông thầy kiện là những nhà buôn đã có đóng môn bài để buôn bán công lý. Họ bèn trộn lẫn lộn thầy kiện và thầy cò vào cùng một bị, tuy rằng cũng có phân biệt là thầy kiện chỉ hơn thầy cò ở chỗ có quyền cãi trước tòa án mà thôi.
Tôi tin rằng tôi ghi ra đây cái tình thế đặc biệt ấy là rứt hợp ý với một số các ông thầy kiện nào có lương tâm về chức vụ, thấy nói như thế thì cũng lấy làm áy náy và sẽ lưu tâm đến cách phải làm làm sao cho cái dân An Nam còn quê mùa này có thể hiểu được cái hay, cái tốt ở trong nghề mình. Nói như thế, chính là muốn bênh vực những điều tốt đẹp trong cái chính thể dân chủ nước Pháp, những điều mà tiếc thay một số luật sư khác đã trót làm ô danh, chỉ vì có óc thực tế quá, cho nên đối với người An Nam miễn là làm cách gì lấy được đông khách thì thôi, chứ không cần giữ tiếng.
Bây giờ ta lại nói thêm mấy câu về những ông kiếm việc, có nhiều ông phòng giấy lúc nào cũng đông khách, có thể làm cho những phòng luật sư có danh tiếng cũng phải thèm muốn được.
Phần nhiều, những ông kiếm được nhiều việc nhất lại không phải là những người làm việc quang minh chính đại, nghĩa là đã đóng môn bài hẳn hoi về nghề kiếm việc. Phái người này làm ăn cũng giống như một số nghệ sĩ, thợ kim hoàn hay thợ thêu, thường nhận làm khoán những món hàng to mà không cần mở cửa hàng. Cái chức nghiệp thật của họ chỉ là sự họ thường đi lại giao thiệp với tất cả mọi người có quyền thế hoặc lớn hoặc nhỏ, nên có thể lấy tư cách là chỗ “thân tình” với các quan trên mà can thiệp hộ những người quen của họ, tức là các khách hàng vậy. Muốn gây ra những sự quen thuộc có lợi ấy thì bất cứ những phương pháp hấp dẫn và quảng cáo nào họ cũng đem thực hành tuốt.


Thôi thì đủ thứ: cờ bạc, chè chén, giai gái, hút xách. Cờ bạc và thuốc phiện vừa là những nghề gá chứa có lãi lại vừa làm cho khách hàng thành ra những bạn hữu có ích. Bọn chủ gá dẫu cho có khi chưa làm được xiêu lòng những khách hàng có quyền thế của mình, nhưng một khi các ông có thế lực kia đã lai vãng nhà họ, đã để cho người khác trông thấy rằng họ có cơ chạy chọt được việc này việc nọ, thì là đủ cho họ có thể “làm tiền” được rồi, vì lẽ rằng bọn người đang có việc gì cần chạy chọt, cầu khẩn mà lại thấy người được tiếp đãi trong nhà một vài vị tai mặt nào có thế lực trong sự quyết định của nhà nước hay của tòa án, thì họ không còn trù trừ gì nữa mà bỏ ngay tiền ra để nhờ chạy việc hộ. Vì lẽ ấy, những người có địa vị to trong xã hội cần phải chọn lọc sự giao du lắm, và đừng để cho chủ những nhà mình hay đến chơi bờ có thể lợi dụng tiếng tăm mình được, ngay trong sự đi lại đó.
Chính những kẻ thường vẫn kiếm được cho các quan lại và các công chức tham nhũng lại cũng là những kẻ hay tiến dẫn khách hàng của họ đến các phòng luật sư. Đối với các quan cũng như đối với các thầy kiện, có thể nói là quyền thế của họ rộng hơn vì họ có thể săn sóc đến hết các thứ việc, việc nào nên đem ra trước pháp luật, việc nào nên vận động một cách mờ ám, đều là tự ý họ kén chọn lấy con đường tiện lợi nhất.
Tại các tỉnh nhỏ đều có một số rất đông những tay thầy cò chạy việc như thế, họ ở vào những địa vị và có những lề lối sinh nhai rất khó hiểu, thường thì họ sống bằng những việc mà thiên hạ đem đến cho họ, nhưng khi nào cần thì họ mới móc cho ra việc cũng có. Hạng người này hoặc là những công chức đã về hưu, bị đuổi hay bị thải, hoặc là những kỳ mục[1] có thế lực trong làng, hoặc là bọn cho vay lãi hút máu hút mủ dân trong những vụ đổ thuế, hoặc nữa là những chủ hàng cơm mà cửa hiệu dọn gần sát ngay bên công đường quan phủ, huyện, toàn là những người cả đời sống đụng chạm với dân quê, hiểu hết những mối ganh tị hay ưu tư của họ, và biết cách vận động cho họ nên công kia việc nọ. Nếu ta muốn dò xét quan nha ở những chỗ ấy xem là thanh liêm hay tham nhũng, thì ta chỉ cần quan sát kỹ cái hạng người đặc biệt này, là hạng người xưa nay vẫn ăn bám vào quan nha và mưu lợi luôn thể cho quan nha nữa. Khi ta thấy những kẻ mối lái kia đông đúc và thịnh vượng, ấy tức là công việc vẫn sầm uất, trót lọt. Trái lại, khi các quan không đem oai quyền ra buôn bán, thì bọn môi giới này rơi ngay vào cảnh thất nghiệp, hoặc là kêu ca ta thán hoặc là đành phải bán xới mà đi.
Cũng có những vị quan rất thanh liêm mà lại bị dân gian căm hờn, bởi cớ rằng cứ nghiêm quá, cẩn thẩn mọi sự quá, làm cho những việc rất tầm thường cũng hóa ra rắc rối, thí dụ như bó buộc người dân có việc vào hầu phải tốn rất nhiều tiền đi cầu khẩn bọn chạy việc kia chỉ đường chỉ lối cho trước đã. Đây là một thí dụ để cho ta biết rằng muốn làm ông quan tốt, không phải hễ cứ thanh liêm mà đã là đủ. Lại còn phải có trí sáng suốt, có lòng dễ dãi để mà tránh cho đám dân dưới quyền mình khỏi ở trong cái cảnh lúc nào cũng nơm nớp lo có điều gì trái luật.
Đối lại, trong hoạn trường lại có một số người đặc biệt, họ biết tham nhũng một cách nhã nhặn, vừa phải, thật là một lối tham những đắc sách lắm, vì nó làm cho tất cả mọi người đều sống được vì nó mà không làm cho dân phải khổ sở quá. Cái thái độ này, than ôi đã sinh thành nên những ông quan lớn có danh tiếng với cả nhân dân cũng như được lòng cả chính phủ, vì những ông quan lớn ở bực trên nữa cũng có lợi vào cái cách thức ấy, mà lại được yên tâm, không bao giờ phải lo có điều gì phiền nhiễu đến mình, khi thấy những kẻ ở dưới quyền mình đã khôn khéo trăm khoanh như vậy.
Trước khi kết liễu thiên khảo cứu này, tôi còn muốn mời các ngài để ý đến một cái nguồn hối lộ mới mẻ nữa cho các quan lại và những chân tay của họ. Ấy là một trăm nghìn sáng kiến của chính phủ Pháp vừa có từ ít lâu nay, tức là những cuộc điều tra, đòi hỏi về những con số để lập những bản thống kê về nông nghệ, kỹ nghệ, nhân công, mục súc, dân số, cùng những sự di dịch của dân gian, toàn là những điều hữu ích mà nhà nước cần biết rõ, nhưng mà người dân ngu không sao hiểu nổi được, tổng lý cũng vậy. Nhà nước in ra những mảnh giấy chằng chịt những cột, những dấu để chia lớp, chia đoạn rứt khó hiểu, rồi trao cho lý trưởng để viết vào cho đầy, thì mỗi một tờ giấy đó thường các lý trưởng phải tốn kém hàng một hai chục bạc, bỏ ứng ra trước để rồi tính cho cả làng phải chịu sau. Vì rằng muốn khỏi sợ làm hỏng mất mảnh giấy in trịnh trọng và đẹp đẽ của Nhà nước như thế, bọn lý trưởng đã nghĩ thà rằng nhờ quách ngay cái ông phán, ông ký nào đó ở công đường viết hộ còn chắc chắn hơn, mà ông phán hoặc ông ký kia phần nhiều lại chính là người đã được quan cử ra để kiểm soát và nhận những giấy ấy. Số tiền của hàng trăm làng trong một địa hạt như thế không phải là nhỏ, cho nên ta chớ tưởng rằng số tiền ấy chỉ riêng một mình ông ký kia được xơi cả thôi đâu. Tất cả các nhân viên trong công đường thường thường được chia nhau chấm mút, trừ ra nếu ông quan lớn không chiếm lấy cả và chỉ để dành cho người ông cử làm việc ấy có một phần nhỏ.

Xem như vậy thì nếu chính phủ Pháp ở đây không muốn khuyến miễn cái sự những viên chức công sở bóc lột đám dân ngu như thế, tất phải tổ chức thế nào cho những cách thức điều tra, dò hỏi nói trên này được hoàn hảo hơn nữa. Có nhiều câu hỏi, nếu chỉ nhìn trên mặt giấy thì thấy như là rất dễ, đứa trẻ con cũng làm xong được, vậy mà lý trưởng, chánh hội các làng không biết đằng nào mà đáp, vì rằng cuộc đời và mọi sự cần lao của người dân An Nam xưa nay không hề được có tổ chức phân minh như chính phủ vẫn tưởng lầm. Vì sự tưởng lầm đó mà các nhà cầm quyền coi như là rất tầm thường, rất tự nhiên việc hỏi nhà nông trong một mùa đã tốn bao nhiêu công cầy, bao nhiêu công gặt, bao nhiêu công tát nước, việc hỏi một vụ ngô, một vụ đậu, vụ mía, hoặc những nông sản nào khác nữa được tất cả là bao nhiêu… Bao những điều khai báo của hương lý kia toàn là phải mất nhiều tiền mới có được, mà chẳng đúng sự thực một tí nào! Họa chăng phải có một ngạch chuyên môn gồm có những người vừa giàu trí khoa học vừa thấu rõ mọi cách làm ăn của người bản xứ, khi bấy giờ mới mong có thể lập nên những bản thống kê có những con số tiềm tiệm đúng, khả dĩ đem dùng làm tài liệu cho những sự nghiên cứu hoặc những công cuộc tổ chức có lợi thật, về mai sau được.
Sau cùng, lại còn việc kiểm soát các công việc cải lương hương tục là những công việc đã gây ra biết bao nhiêu sự tranh giành ghê gớm về tư lợi, nhưng về việc này, chúng tôi sẽ nói rõ ràng kỹ lưỡng trong một thiên thảo cứu khác.■
[1] Kỳ mục: những người có tuổi, có chức phận trong thôn làng thời xưa