Đào Trinh Nhất
Đội Cấn và Lương Ngọc Quyến là hai thủ lĩnh trong cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên chống thực dân Pháp năm 1917. Nhưng khi đó Đội Cấn, tức Trịnh Văn Cấn, vẫn là chỉ huy đội lính khố xanh, còn nhà cách mạng Lương Ngọc Quyến (hiệu Lập Nham) là một người tù bị thực dân Pháp giam hãm trong xà lim. Làm cách nào để hai người đứng đầu này trao đổi được với nhau và mưu tính cuộc khởi nghĩa trước sự rình mò thường nhật của địch? Trong cuốn sách “Lương Ngọc Quyến và Cuộc Khởi nghĩa Thái Nguyên 1917” xuất bản năm 1946, tác giả Đào Trinh Nhất đã tiết lộ một mắt xích quan trọng thực hiện nhiệm vụ kết nối liên lạc giữa họ, đó là một người hiệp nữ, sau này trở thành vợ của Đội Cấn. Tạp chí Phương Đông xin trích đăng nội dung này giới thiệu tới độc giả.
… Có ai tưởng tượng người ấy [nhà cách mạng Lương Ngọc Quyến, hiệu Lập Nham] tuy thân bị nhốt, chân bị què, mà khối óc vẫn lo việc cứu nước, không quên quân thù? Rất đỗi cứ nằm trong ngục tối, gắn chân vào cùm, mà chủ trương xếp đặt một cuộc võ trang cách mạng, dần dà cảm hóa khuyến khích được ông đội khố xanh Trịnh Cấn kéo cờ khởi nghĩa giữa tỉnh Thái Nguyên đêm hôm 13 tháng Bảy năm Đinh Tỵ (1917)!


Nhưng, một đằng là tù trọng phạm, bị cùm luôn trong xà lim mà kẻ giữ ngục lại là người Pháp, một đằng là đội khố xanh ở bên trại lính không có quyền hành gì với đề lao, hai bên cách biệt hẳn nhau và đều ở dưới con mắt luôn luôn xem xét rình mò, thế thì ông Lập Nham với ông Đội Cấn làm cách gì để trao đổi thanh khí tin tức được với nhau mà mưu tính được một việc, là cuộc khởi nghĩa?
Chỗ này xuất hiện một người đàn bà khôn ngoan, can đảm, chịu hy sinh tất cả thân thế gia đình cho việc cách mạng, ta cần phải biết.
Ở trong ngục Thái Nguyên hồi bấy giờ, kể cả ông Lập Nham, có đến chục người quốc sự phạm. Trừ ông Lập Nham què liệt bị giam cầm đêm ngày, còn các người khác vẫn phải đi ra ngoài làm việc cỏ vê[1] tùy án nặng nhẹ. Trong hạng tù ấy, có hai anh em ruột, Cả Thấu và Hai Vịnh (có người nói là Vỵ) cũng là chiến sĩ cách mạng còn trẻ tuổi, có tiếng gan góc, giỏi võ nghệ, tâm địa rất tốt.
Hai người là con ông cử Phùng Văn Nhuận, làng Vân Cốc, tỉnh Sơn Tây, một tướng lĩnh văn thân chống cự quân Pháp ngay lúc đô hộ mới xây dựng trên đất Trung, Bắc. Chắc ai cũng nhớ đoạn sử năm 1884, Nam triều thất thế, phải nhìn nhận quyền Pháp bảo hộ, ra lệnh giải tán quân thứ và khuyên nhủ quan lại phục tùng chính sách mới. Sĩ phu phẫn khích sôi nổi, nhiều ông nộp ấn từ quan, để về mộ binh đánh Pháp; đầu hết là ông Nguyễn Thiện Thuật, tán tương quân vụ Sơn Tây. Văn thân hưởng ứng rất đông. Ông Nguyễn Văn Giáp đang làm Bố chính tỉnh Sơn cũng bỏ quan về kéo cờ khởi nghĩa; quân sư và phó tướng đạo nghĩa binh này tức là ông Cử Phùng Văn Nhuận.
Sau chủ tướng Bố Giáp qua đời, ông Phùng Văn Nhuận lên thay quyền chỉ huy, luôn mấy năm kháng chiến ở vùng giáp giới Sơn Tây, Hưng Hóa. Nhưng thế cùng lực tận, nghĩa binh tan vỡ, ông thủ khoa Nhuận (cũng có người nói ông đỗ thủ khoa) phải mai danh, ẩn tích, về miền Vĩnh Yên dạy học. Trong lúc gõ đầu trẻ, ông vẫn bí mật giao thiệp với các văn thân phản đối, mưu sự khởi binh lần nữa.
Người Pháp nghe tiếng, cố sức ép buộc phải ra làm Tri huyện, độ hơn một năm, ông kiếm cớ bỏ về, theo đuổi chí cũ.
Một người bạn ông, muốn được thăng chức Án sát, bèn tố giác hành động của ông. Vì thế ông bị bắt và đưa về giữa làng Vân Cốc xử chém. Lúc chết, ông ung dung dặn lại con cái mai sau phải giết giặc trả thù cho cha.
Đời là thế, ấy đời là thế,
Hồn có thiêng cũng hé miệng cười.
Những quân dạ thú mặt người,
Quá ham danh lợi, đạo trời kể chi!
Lại gặp lúc nước suy thế ngặt,
Lũ “rước voi” ra mặt tung hoành.
Thi nhau bán nước cầu vinh,
Còn đâu nghĩ tới chút tình keo sơn.
Đó là mấy câu trong bài văn của sĩ phu tỉnh Sơn cảm khái về việc ông thủ khoa Nhuận ngộ hại.
Ông chết, nhà cửa bị tịch thu, vợ con phải phiêu bạt.
Chí khí cách mạng di truyền trong mạch máu. Cả Thấu và Hai Vịnh lớn lên, đi theo Đề Thám, mong cứu nạn nước để báo thù nhà. Sau khi Đề Thám thất bại bị giết, hai anh em họ Phùng còn ra sức thu gom tàn lực kháng chiến một hồi rồi mới bị bắt. Người Pháp kết án khổ sai đày lên Thái Nguyên.
Bình nhật ông Đội Cấn vẫn ôm lòng ái mộ những chính trị phạm ở bên đề lao, thường tìm cách thuận tiện để thông tin và tặng hảo thuốc men quà bánh. Nhất là nghe rõ ông Lập Nham có khí tiết và có học thức quân sự giỏi, ông Đội Cấn càng đầy lòng khuynh mộ. Vì thế hai người vẫn trao đổi thanh khí với nhau.


Nhưng sau, thật nhờ có cô em của hai chiến sĩ họ Phùng làm nội ứng, tin tức trao đổi chẳng những mau lẹ và có hằng ngày, mà cuộc khởi nghĩa cũng được sớm thực hiện, theo như kế hoạch ông Lập Nham đã định. Cô như là người phát ngôn của tất cả anh em chính trị phạm ở đề lao, khuyến khích thúc giục ông Đội Cấn mau mau thực hành đại sự.
Lúc ấy cô mới ngoài 20 tuổi, vẻ người xinh xắn có duyên, nhất là ăn nói lanh lợi, dễ cảm. Hình như cô đã có chồng ở nhà quê, nhưng có người nói chưa cưới, cô vẫn ở với lão mẫu, một mẹ, một con, nương tựa lẫn nhau. Từ lúc hai anh em bị phát vãng Thái Nguyên, thường năm vài lần bà thủ khoa sai cô lên thăm nom cấp dưỡng hai anh.
Má hồng của người thôn nữ Sơn Tây dần dà lọt vào mắt xanh thầy đội họ Trịnh.
Thấy thế, Cả Thấu và Hai Vịnh liền nghĩ ra kế thỏa hiệp, nói thật cho cô biết đại sự đang mưu tính giữa các đồng chí ở đề lao và bên trại lính. Rồi đem nghĩa lớn thù nhà nạn nước ra thuyết cô em, yêu cầu cô nên hy sinh giúp đỡ cho đại sự được chóng thành. Nghĩa là yêu cầu cô thuận lấy Đội Cấn, để làm người giao thông giữa ông ta với anh em chính trị phạm trong đề lao, như thế mới được kín đáo chắc chắn. Đồng thời, cô khéo tìm cách lựa lời khích lệ giục giã chồng làm sao cho việc khởi nghĩa thực hiện càng sớm càng hay, kẻo để dây dưa lâu ngày không khỏi tai vách mạch rừng, hỏng mất công việc.
Hai tráng sĩ biết rõ em gái mình cũng là hạng người có tâm huyết, hiểu đại nghĩa, cho nên mới ngỏ hết bí mật và yêu cầu cô em một việc khó khăn như thế.
Cô suy nghĩ rồi trả lời ngay một cách cả quyết, vui vẻ:
– Quả như hy sinh mà có lợi ích chút nào cho việc nước thù nhà, em đây chẳng dám tiếc thân!
Một lát, cô lại tiếp:
– Nhưng ở nhà chúng ta còn mẹ già, từ khi vắng mặt hai anh, chỉ có một mình em sớm thăm tối viếng. Em cần phải xếp đặt chỗ ấy cho yên ổn đã, trước khi vâng theo lời dạy của hai anh.
– Cô nghĩ rất phải! Cả Thấu nói và giục em. Vậy thì cô về ngay nhà đi! Anh chắc thế nào mẹ già cũng khuyến khích chúng ta, chứ không cản trở.
Tức thời, cô lên đường về Sơn Tây thu xếp việc nhà và hỏi ý kiến bà thủ khoa Nhuận. Bà nghe nói đến đâu, nét mặt tỏ vui sướng đến đấy như đã tới lúc cho bà được cất một gánh nặng trong tinh thần vậy. Bà nói:
– Ai cũng có nghĩa vụ phải hy sinh với Tổ quốc, còn phải hỏi gì nữa! Huống chi còn việc thù nhà, mấy lời của cha con dặn lại trước lúc chém… Các con xét là việc có thể làm, thời cơ đáng làm, thì cứ việc làm đi!… Mẹ cầu trời khấn Phật cho.
– Nhưng anh em chúng con chỉ băn khoăn về chỗ quân thù sẽ giận cá chém thớt, để mẹ già phải liên lụy, thật không đành lòng! Cô vừa nói vừa khóc. Vả lại bây giờ con lên Thái Nguyên, mẹ ở nhà thui thủi một mình.
– Chết rồi! Sao con ông thủ khoa Vân Cốc lại yếu bóng vía thế ư?… Ở đời chỉ những lo quanh sợ quẩn thì còn làm nên trò trống gì?… Mẹ đã có cách tự thoát, các con không phải lo nghĩ!
Cách tự thoát của bà là cách nghĩa liệt như bực mẹ các dũng sĩ Chuyên Chư, Nhiếp Chính đời xưa: tự hủy mình trước đi, để cho con yên tâm làm việc, khỏi phải lo nghĩ cửa nhà.
Thật thế, ngay đêm hôm ấy, bà lẳng lặng thắt cổ tự tận, để khuyến khích các con làm việc cách mạng; giờ các con bà chỉ có việc đi thẳng tới, không còn phải bận bịu ngoảnh lại phía sau nữa.
Cô chôn cất mẹ già rồi lên thẳng Thái Nguyên, trở nên người vợ yêu dấu mong mỏi của thầy đội khố xanh họ Trịnh.
Liền đấy cô xoay xở bao thầu cơm tù cơm lính, cho được mỗi ngày hai lần ra vào đề lao, đem những thư từ tin tức của các chính trị phạm – nhất là của ông Lập Nham mà ông Đội Cấn vẫn kính mến và thường hỏi ý kiến mỗi khi gặp việc khó khăn – khích lệ ông Đội Cấn đã ôm ấp chí lớn, thì nên mau mau cử sự đi, kẻo lỡ cơ hội.
Cô là người có tâm cơ, lại biết chữ ít nhiều, cho nên Đội Cấn càng tin yêu, không ngần ngại phó thác mọi việc bí mật. Mỗi ngày cô lại đem những chuyện xa tình gần, thù nhà nợ nước tỷ tê khuyên lơn thúc giục chồng, hết sức thiết tha khẩn khoản. Hơn nữa cô lại khéo làm cho cố kết tấm lòng cộng sự của Đội Giá, Cai Xuyên là bạn đồng tâm mưu đồ khởi nghĩa với Đội Cấn.
Mùa hạ năm Đinh Tỵ (1917), hai lần Đội Cấn đã toan cử sự, nhưng giờ chót lại ra lệnh hoãn; rồi đến đêm hôm 13 tháng Bảy, lá cờ cách mệnh treo cao trên thành Thái Nguyên, cô em gái Cả Thấu và Hai Vịnh là một vai chủ động gián tiếp vậy.
Cụ nghè Tập Xuyên Ngô Đức Kế hồi đó còn ở Côn Lôn, được gặp những người thất bại Thái Nguyên bị đày ra đảo, kể chuyện tường tận, nhân thế cụ viết thành tập “THÁI NGUYÊN THẤT NHẬT QUANG PHỤC KÝ” gọi người đàn bà hy sinh ấy là hiệp nữ.


Chỉ tiếc không có ai biết rõ cái đời của hiệp nữ kết cuộc ra sao. Có người nói sau khi Quang Phục quân bại trận phải bỏ tỉnh thành Thái Nguyên rút vào rừng núi, hiệp nữ đi theo sát cánh Đại Đô đốc họ Trịnh, rồi bỏ mình ở trận Tam Đảo, khoảng cuối tháng Tám ta, cả hai người anh cũng chết ở trận ấy.
Quân Pháp đi đánh dẹp, cũng nhìn nhận mấy lúc đầu có cả đàn bà ở trong tàn binh Đội Cấn, có phải chính là hiệp nữ đấy chăng?■
[1] Cỏ vê: từ mượn âm tiếng Pháp, chỉ việc lao động cực khổ của người tù dưới thời Pháp thuộc, BTV