Bài: Stephen Turnbull
Minh họa: Wayne Reynolds
Ngô Bắc dịch
Tạp chí Phương Đông trích dịch giới thiệu tới độc giả cuốn sách “Chiến thuyền của vùng Viễn Đông”, Tập 1: Trung Quốc và Đông Nam Á từ năm 202 trước Công nguyên đến năm 1419, của sử gia Anh nổi tiếng Stephen Turnbull.
Chiến thuyền
Cả người Chăm [hay Chàm] và người Khmer đều sử dụng hải quân trong các cuộc chiến tranh trong thế kỷ XII, người Chàm thường sử dụng các hạm đội với hơn 100 tàu. Một số con thuyền này là thuyền buồm [hay dương thuyền, ND] chiến đấu, đã hoạt động tích cực trong các cuộc chiến đấu ven biển chống lại các cuộc xâm lược của Trung Hoa và Mông Cổ vào Việt Nam từ năm 1281 đến năm 1288, nhưng dạng thuyền chiến phổ biến nhất của cả hai dân tộc là thuyền chiến kiểu sà lan (barge) hay xuồng (canoe) chiến đấu – chạy nhờ những người chèo lái. Những chiến thuyền này thường được tìm thấy nhiều nhất trong chiến tranh trên sông hay trong các cuộc chiến ven biển để hỗ trợ quân đội trên bộ: chúng không thể đi xa khỏi một bờ biển thân thiện do nhu cầu bổ sung nguồn cung cấp nước ngọt. Những mô tả về cuộc xâm lược Java của người Mông Cổ cho thấy rõ ràng rằng các xuồng chiến đấu của người Java rất giống với các mô hình của người Khmer và người Chàm.
Nguồn thông tin chính của chúng tôi về các chiến thuyền của người Khmer và người Chàm cũng như bản chất cuộc chiến của họ là những bức phù điêu được chạm khắc trên các bức tường của đền Banteay Chhmar và đền Bayon ở Angkor Thom, Campuchia. Người ta tin rằng chúng minh họa các trận chiến diễn ra khi người Khmer được giải phóng khỏi cuộc xâm lược của người Chàm vào năm 1181, và do đó thiên về quan điểm của Campuchia, nhưng chi tiết của chúng là một nguồn tư liệu lịch sử vô song.
Thuyền chiến kiểu sà lan là loại xuồng (canoe) độc mộc rất lớn. Những chiếc tương tự, nhưng được trang bị các mái chèo bên ngoài, cho phép các nhà hàng hải dũng cảm của Polynesia thực hiện các hành trình vượt biển, nhưng các loại của Campuchia và Việt Nam rõ ràng được trang bị như thuyền chiến để chiến đấu trên sông. Trong một bức phù điêu có thể đếm được 23 tay chèo ở mỗi bên thuyền, hẳn phải dài khoảng 100 feet (hơn 30 mét). Các thuyền có những hình đầu nổi bật được chạm khắc giống như đầu quái vật, và “đuôi” cong bổ trợ ở đuôi thuyền, khiến chúng trông khá giống tàu người Viking [chỉ các dân chuyên đi biển thuộc vùng Bắc Âu như Thụy Điển, Na Uy … ND]. Hai bên có thể được phân biệt nhờ các tay chèo Khmer được cho thấy để đầu trần trong khi người Chàm đội chiếc mũ trông giống như bông hoa được mô tả ở những nơi khác tại các ngôi đền Campuchia trong các phù điêu về chiến tranh trên bộ. Tất cả những người chèo lái đều quay mặt về phía sau ngoại trừ thủy thủ đoàn trên thuyền hoàng gia Khmer – những người này được thể hiện đang vận hành mái chèo của họ như những gậy sào (yulohs) trong khi quay mặt về phía trước. Những người này không được bảo vệ cơ thể, không giống như các thủy thủ đoàn khác có tấm chắn mắt cáo dài, mà các mái chèo của họ thò ra bên ngoài qua đó. Chắc chắn điều này nhằm thể hiện sự dũng cảm tuyệt vời của họ trước sự chứng kiến của nhà vua, người đang đứng, cao lớn hơn người thường, ở giữa thuyền hoàng gia và đang bắn một mũi tên. Trong một cuộc thao diễn khéo léo mang tính tuyên truyền của người Khmer, vua Chàm đối thủ được biểu thị là đã quay đầu bỏ chạy khỏi trận chiến. Các thuyền Chàm khác đang rút lui, và một số binh lính của họ đã rơi xuống nước và bị những con cá sấu đang chờ sẵn nuốt chửng.
Những con thuyền như vậy vẫn được sử dụng một thế kỷ sau đó, vì vào năm 1279, một quan chức Trung Quốc đã đến thăm Campuchia [Chu Đạt Quan, với bút ký Chân Lạp Phong Thổ Ký, ND] và để lại lời kể của một nhân chứng về cách chế tạo cả thuyền và xuồng độc mộc. Ông đặc biệt lưu ý rằng các kỹ thuật này khác với cách làm thông thường của Trung Hoa như thế nào, ở chỗ các rìu nhỏ (hatchets) được sử dụng thay vì những chiếc cưa, điều đó có nghĩa là việc đẽo đục một tấm ván mất rất nhiều thời gian. Các con thuyền được gắn liền với nhau bằng những chiếc đinh sắt, và mái được lợp bằng tấm thảm dệt buộc bằng các dải cọ dừa. Những chiếc xuồng độc mộc được đục đẽo với sự trợ giúp của lửa và nước.
Các kỹ thuật giao tranh bằng thuyền chiến
Các bức phù điêu của Campuchia cho thấy rõ ràng rằng việc giữ néo bằng móc câu và đổ bộ lên thuyền, chứ không phải là bắn phá từ xa theo kiểu Trung Hoa, là kỹ thuật được ưa thích trong chiến đấu trên sông, mặc dù một trong những thuyền phía sau của người Khmer có cung thủ bắn tên, là những người có lẽ đã “ra tay” trước khi cuộc đổ bộ lên thuyền diễn ra. Những người lính Khmer lấp đầy các thuyền phía sau các tay chèo đều được cho thấy để đầu trần, và đang chiến đấu với người Chàm vô cùng quyết liệt. Trong một bức tranh, một chiếc thuyền đang chìm như thể nó bị đâm, nhưng vụ va chạm rõ ràng xảy ra là do tai nạn, vì có hai thuyền Khmer liên quan, mỗi chiếc ở một đầu và một số binh sĩ Khmer đang chìm xuống cùng với thuyền đối phương. Trong các tình huống thông thường của trận chiến được mô tả ở những nơi khác, các mũi tên được bắn qua lại, và sau đó các thuyền áp sát nhau hoặc đối đầu hoặc bên hông nhau. Các móc câu bằng sắt được tung ra, và trong khi một số người đang kéo dây cáp bằng mây để giữ cho thuyền sát lại với nhau, cuộc đổ bộ lên thuyền đã diễn ra dưới sự chỉ huy của một sĩ quan người Khmer, người kiểm soát các hoạt động từ bên dưới chiếc lọng của ông ta ở giữa thuyền. Binh lính của cả hai bên được trang bị các giáo dài và những tấm khiên. Các thuyền chiến được dàn trận để chống lại quân Mông Cổ xâm lược Việt Nam và Java hẳn sẽ chuyên chở các chiến sĩ rất giống như thế.
Thuyền chiến cũng được sử dụng làm thuyền chở quân và thuyền tiếp tế. Trong một bức phù điêu của Campuchia, thuyền Chàm được biểu thị đang tiến đến một bãi đáp với các tù nhân Khmer ở trên, trong khi thường dân bỏ chạy trốn trên bờ. Những chiếc thuyền như vậy cũng được sử dụng trong chiến thuật bao vây, với các cuộc tấn công vào hệ thống phòng thủ được thực hiện từ các hạm đội thuyền đường sông hoặc ven biển. Các kỹ thuật bao vây phức tạp hơn liên quan đến việc sử dụng nhiều thuyền chiến để phong tỏa xung quanh một địa điểm phòng thủ. Trong trường hợp như vậy, các thuyền có thể được buộc với nhau, như đã ghi trong bia ký đương thời mô tả “hàng ngàn con thuyền màu trắng mới, được nối với nhau bằng các sợi mây, trải dài mọi hướng”.
Người Việt đã có vũ khí gây cháy trước người Trung Hoa vì con đường truyền tải vũ khí gây cháy dựa vào dầu hỏa đến Trung Hoa khởi hành từ Đế chế Byzantine dường như đã đi qua Đông Nam Á thông qua các thương nhân Ả Rập. Năm 958, một sứ thần của vua Chàm đã dâng tặng một chai “dầu lửa cháy dữ dội” lên triều đình tại Khai Phong [tại Trung Hoa, ND]. Do đó, có một loại vũ khí đã được người Chàm sử dụng trong chiến tranh hải quân không xuất hiện trên bất kỳ bức phù điêu nào của Campuchia, vì vậy chúng ta phải dựa vào một bài tường thuật năm 1298 để có sự mô tả về loại lựu đạn dầu hỏa (naphtha) (trong bút ký này được gọi là “bùn dầu: mud oil “) được ném bằng tay trong hải chiến từ đỉnh cột buồm của loại thuyền hẳn phải là những chiếc thuyền buồm (junks) chứ không phải thuyền chiến kiểu sà lan (barge): Những chiếc chai nhỏ được đổ đầy bùn dầu và một cuộn trấu hạt cau được dùng làm nút đậy. Khi được đốt, nó hoạt động giống như một chiếc cầu chì. Sau đó, các chai được ném từ trên cao xuống, và khi [các chai] dầu bùn rơi xuống boong, chúng [vỡ ra và] bùng lên thành ngọn lửa lan ra khắp nơi và tiếp tục cháy. Nếu nước được tạt vào nó, nó càng bốc cháy dữ dội hơn, và không gì khác ngoài đất khô và tro bếp mới dập tắt được. Ngày nay, các tàu hải quân chính thức của chúng ta không thích tiếp cận các tàu man rợ có độ mớn nước nông này vì thứ vũ khí đáng sợ này.
Người ta có thể tưởng tượng chúng được triển khai theo cách này để chống lại những kẻ xâm lược Mông Cổ vào Việt Nam vào năm 1287-1288, nhưng vũ khí được sử dụng để chống lại họ trong chiến tranh hải quân ở Java có lẽ còn thô sơ hơn nhiều.
*
Năm 1177, vua Jaya Indravarman của xứ Chàm xâm lược Campuchia bằng đường biển. Đội thuyền của ông được dẫn đường dọc theo bờ biển và ngược dòng sông đến kinh đô Angkor của người Khmer. Thành phố Angkor đã bị cướp phá, và người Chàm chiếm đóng Campuchia trong bốn năm tiếp theo, cho đến khi vua Campuchia tương lai, Jayavarman VII, phát động một cuộc nổi dậy. Ông đã đánh bại người Chàm trong một trận thủy chiến lớn vào năm 1181, một thiên anh hùng ca về trận chiến trên sông được ghi nhớ mãi mãi trong các bức phù điêu chạm khắc trên những bức tường của các ngôi đền Banteay Chhmar và Bayon ở Campuchia. Ở đây chúng ta thấy những chiếc xuồng chiến đấu của người Khmer và người Chàm móc hàm nhau trong một trận chiến ác liệt trên sông. Những con thuyền có hình đầu kỳ dị và chứa đầy các cung thủ cùng những người cầm giáo. Hai bên có thể được phân biệt nhờ các tay chèo Khmer được cho thấy để đầu trần trong khi người Chàm đội chiếc mũ trông giống như bông hoa được mô tả ở những nơi khác tại các ngôi đền Campuchia trong các phù điêu về chiến tranh trên bộ. Tất cả những người chèo lái đều quay mặt về phía sau ngoại trừ thủy thủ đoàn trên thuyền hoàng gia Khmer – những người này được thể hiện đang vận hành mái chèo của họ như những gậy sào (yulohs) trong khi quay mặt về phía trước. Những người này không được bảo vệ cơ thể, không giống như các thủy thủ đoàn khác có tấm chắn mắt cáo dài, mà các mái chèo của họ thò ra bên ngoài qua đó. Chắc chắn điều này nhằm thể hiện sự dũng cảm tuyệt vời của họ trước sự chứng kiến của nhà vua, người đang đứng, cao lớn hơn người thường, ở giữa thuyền hoàng gia và đang bắn một mũi tên. Các mũi tên được bắn qua lại, và sau đó các thuyền áp sát nhau hoặc đối đầu hoặc bên hông nhau. Các móc câu bằng sắt được tung ra, và trong khi một số người đang kéo dây cáp bằng mây để giữ cho thuyền sát lại với nhau, cuộc đổ bộ lên thuyền đã diễn ra dưới sự chỉ huy của một sĩ quan người Khmer, người kiểm soát các hoạt động từ bên dưới chiếc lọng của ông ta ở giữa thuyền. Binh lính của cả hai bên được trang bị các giáo dài và những tấm khiên, và những con cá sấu sẽ nuốt chửng bất cứ ai bị ngã xuống từ mạn thuyền.
Tướng Thoát Hoan (Toghon) của nhà Nguyên (Mông Cổ) đã thiếu khôn ngoan khi tấn công An Nam (Việt Nam) trong mùa nóng năm 1288, và một trận thủy chiến ác liệt đã diễn ra ở cửa sông Bạch Đằng ngoài khơi Hải Phòng, nơi một vị tướng nổi tiếng của Việt Nam đã đánh bại một đội quân Trung Hoa nhiều thế kỷ trước đó. Tướng Trần Hưng Đạo giờ đây lập lại chiến công, áp dụng cùng các chiến thuật tương tự, chống lại quân Mông Cổ. Ông đợi cho đến khi thủy triều lên cao, và dẫn dụ hạm đội Mông Cổ tiến vào một vùng nước nông, nơi có cắm những cây cọc nhọn bịt đầu bằng sắt. Khi thủy triều xuống thấp, các chiến thuyền của Mông Cổ đã bị mắc kẹt trên các cọc nhọn hiện ra và bị tổn thất nặng nề.
Các chiến thuyền đi biển của nhà Nguyên chỉ đơn giản phỏng theo các thuyền vận tải đi biển, cho phép chiến đấu trên biển khơi thay vì chủ yếu trên sông và các hải phận ven biển. Các thuyền thương mại đi biển là những tàu quan trọng theo đúng nghĩa của chúng, và có những nguồn thông tin tốt về loại thuyền này từ các triều đại nhà Tống và nhà Nguyên. Vào khoảng năm 1100, một nhà quan sát đã ghi nhận việc họ sử dụng các cánh buồm. Các thuyền tương tự hoạt động như các tàu chiến trong các chiến dịch hải quân ở nước ngoài của người Mông Cổ, như đã được chứng minh trong các bức tranh vẽ các thuyền Mông Cổ xuất hiện trên Cuộn Tranh Sự Xâm Lược Của Mông Cổ, minh họa các cuộc viễn chinh đến Nhật Bản các năm 1274 và 1281. Quân Việt Nam đang chiến đấu từ những chiếc xuồng chiến đấu không khác với những chiếc xuồng trước đây được sử dụng để chống lại quân Khmer. Họ cũng sử dụng các vũ khí gây cháy, dưới dạng lựu đạn dầu mỏ (naphtha) (được gọi là ‘dầu bùn: mud oil’) ném bằng tay. Những chiếc lọ nhỏ bằng gốm được đổ đầy dầu bùn và một cuộn trấu hạt cau được dùng làm nút đậy. Khi được đốt cháy, nó hoạt động như một chiếc cầu chì. Sau đó, những cái lọ được ném đi, và khi những quả bom dầu bùn rơi xuống sàn thuyền, chúng sẽ vỡ nổ và bùng cháy.
Nhà Tiền Hán (hay Tây Hán) tiếp quản triều đại nhà Tần vào năm 200 TCN. Ở đây chúng ta thấy hạm đội chiến đấu trên sông của họ đang bị tấn công từ những kẻ nổi dậy đã thả các hỏa thuyền thô sơ xuống sông về phía họ. Phần lớn chi tiết của các thuyền chiến nhà Hán chỉ là phỏng đoán, vì chỉ có những hình ảnh minh họa thô sơ còn sót lại, vì vậy chúng phải được bổ sung bằng các mô tả của nhân chứng. Những con thuyền lớn nhiều tầng có khả năng được đóng như những chiếc bè gắn trên hai thân tàu đáy phẳng tương tự như một chiếc tàu hai thân (catamaran) vụng về, với những sàn boong nhiều tầng rất đơn giản có kích thước giảm dần giống như một chiếc bánh ga-tô nhiều tầng. Có những bức tường thành đơn giản bao quanh tầng boong thấp hơn của con thuyền, được lặp lại ở các tầng trên. Người chỉ huy đứng kiêu hãnh và kiên cường ở đầu mũi thuyền. Ở tháp trên cùng của con thuyền, một tay trống cổ động mọi người hành động, một màn trình diễn sức mạnh được bổ sung bởi vô số lá cờ đang phất bay. Vũ khí tấn công của con thuyền là những chiếc cung (nỏ) cầm tay. Bên cạnh những chiếc tàu lớn là những chiếc thuyền nhỏ hơn và đơn giản hơn. Chiếc lớn nhất trong số này dựa trên mô hình bằng gỗ của một chiếc thuyền trên sông được tìm thấy trong lăng mộ của một hoàng tử, đã cung cấp những manh mối quan trọng về sự xuất hiện của một chiếc thuyền chiến đơn giản của triều đại nhà Hán. Nó là một chiếc thuyền đáy bằng được vận hành bởi những người chèo lái, với một người lái thuyền ở đuôi thuyền và một cabin đơn giản bằng gỗ. Ngoài ra còn có hai phiên bản nhỏ hơn, một trong số đó có một cọc sừng nhọn bọc sắt thò ra ở các mũi thuyền. Bản thân chiếc cọc sừng là một thân cây được chạm khắc chạy dài suốt chiều dài của chiếc thuyền. Cuối cùng, “xuồng chiến đấu” được chèo bằng năm người. Các chi tiết về trang bị của các “lính thủy quân lục chiến” này được rút ra từ đội quân đất nung nổi tiếng gần cùng thời của hoàng đế nhà Tần ở Tây An, cùng với các bức chạm khắc từ thời Hán Sơ, cho thấy sự tương đồng đáng kể. Những chiếc nón cối bảo hộ (helmets) được làm bằng da hoặc bằng sắt, và có một vẻ ngoài hiện đại lạ lùng đối với họ. Các hỏa thuyền được chế tạo bằng cách chuyển đổi những chiếc thuyền tam bản đơn giản.
Trong tấm hình này, chúng ta nhìn thấy một trận chiến trên sông Dương Tử gần Nam Kinh vào năm 975 giữa nhà Tống và nhà Đường, những bên đang tranh giành quyền lực với nhau. Nhà Đường đang chiến đấu từ một con thuyền ba tầng lou chuan: lâu thuyền (tàu tháp: tower ship). Các tàu chiến Trung Hoa cổ điển này có cấu trúc nhiều tầng, nhưng có các vách tàu phẳng, không giống như các tàu thời nhà Hán được nhìn thấy trong hình bên trên. Có các lỗ cửa sổ và các lỗ khác để bắn cung và phóng thương. Các máy bắn chất nổ (trebuchets) được gắn trên boong trên cùng bên cạnh các lò rèn di động chế tạo các viên đạn lửa bằng sắt được nung nóng. Trên đầu mũi thuyền rộng và cong của nó có vẽ khuôn mặt của một con hổ hung dữ thay cho một hình đầu thú chạm khắc. Một cánh cửa cho phép tiếp cận các khu vực đầu tàu và các bên hông của khu vực tháp tàu.
Các thuyền buồm chiến đấu giống với các con tàu tháp về thiết kế nhưng có kích thước nhỏ hơn, kiến trúc một tầng và ít được bảo vệ hơn. Cũng giống như với các tàu tháp, những người chèo thuyền hoạt động bên ngoài boong trung tâm, nhưng có một buồng phía đuôi tàu được nâng lên là nơi thuyền trưởng chỉ đạo các hoạt động. Tấm hình này cho thấy một sự bổ sung đáng kể về vũ khí trang bị thông thường của con tàu tháp. Trong chiến tranh hải quân Trung Hoa, chiến thuật ưa thích thường không phải là đổ bộ lên tàu mà là bắn phá, cho dù bằng đạn lửa từ ống phóng hay một hỏa lực nặng nề từ cung nỏ. Điều này dẫn đến một biến thể độc đáo của Trung Hoa về các móc câu bằng sắt được thiết kế để giữ tàu địch ở một khoảng cách đã lựa chọn thay vì vươn tới nó dọc sườn tàu. Chúng được gọi là “cánh tay đòn” (striking arms), và bao gồm một số dạng “đầu búa” (hammer head), chẳng hạn như các thanh sắt nặng đầu nhọn, được gắn trên đầu của các cọc dài hơn 15 mét, móc chặt vào cấu trúc thượng tầng của tàu tấn công. Một minh họa từ Nhà Đường cho thấy ba cánh tay đòn được gắn ở mỗi bên của một lâu thuyền. Khi con tàu đi dọc bên hông với một tàu địch, các cánh tay đòn sẽ được giương ra và sẽ hạ xuống theo hình vòng cung để chạm vào sàn (boong) của tàu đối thủ. Trong trường hợp tàu cỡ nhỏ, chiếc búa đập thủng lớp gỗ có thể đánh chìm nó luôn. Nếu tàu của kẻ thù vẫn còn nổi thì đương nhiên nó sẽ bị kìm giữ chặt vào tàu tấn công, nhưng mục đích chính của việc này là không bao giờ cung cấp một bệ phóng để đổ bộ lên tàu. Thay vào đó, các cánh tay đòn sẽ giữ tàu an toàn ở một khoảng cách thích hợp cho công việc ở cự ly gần, trong trường hợp này là hỏa lực kiểu Hy Lạp (Greek Fire), vũ khí bí mật của Byzantium đã truyền sang Trung Hoa và được sử dụng cả trong chiến tranh hải quân và công việc bao vây. Tuy nhiên, tài liệu cho chúng ta biết rằng trong lần này, vũ khí đó gần như thực sự đã phản tác dụng, bởi vì khi tàu nhà Đường phun dầu hỏa từ các ống phóng lửa, một cơn gió bắc bất ngờ bay lên cuốn theo khói và lửa trên bầu trời ngược về phía tàu của họ. Thủy quân nhà Tống đánh trả bằng tên nỏ.
Tấm hình này cho thấy một cuộc giao đấu giữa hai hình thức tàu chiến rất khác nhau, cả hai đều có thể chạy nhanh và dễ điều khiển. Năm 1161 đã xảy ra trận hải chiến nổi tiếng nhất giữa nhà Nam Tống và quân Kim, khi quân Kim, lúc đó do đích thân hoàng đế chỉ huy, đã cố gắng thực hiện một cuộc vượt sông Dương Tử tại Thái Thạch (Caishi). Các tàu chiến đấu guồng có mái chèo của nhà Tống di chuyển nhanh chóng quanh đảo Kim Sơn [? Jinshan] để pháo kích quân Kim với các máy phóng dùng phản lực kéo. Những người bên trong các chiếc thuyền chèo nhanh bằng các guồng máy, và con thuyền lướt về phía trước như thể chúng đang bay. Trong phiên bản được dựng lại này, một guồng chèo lái được đặt ở đuôi thuyền, và có một lá cờ tung bay với nội dung “Ủng hộ nhà Tống, tiêu diệt quân Kim”. Quân Kim đã bị đánh bại nặng nề tại Thái Thạch đến nỗi hoàng đế nhà Kim đã bị hạ sát trên soái hạm của ông ta bởi chính những binh tướng của mình.
Những con thuyền mà quân Kim sử dụng trong tấm hình này là những chiến thuyền nhanh và nhẹ từng là “các tàu khu trục (destroyers)” của Trung Hoa thời trung cổ. Không giống như lâu thuyền và các thuyền buồm chiến đấu, các bức vách của những con thuyền hai tầng này được nối liền với thân thuyền, do đó các tay chèo chiếm giữ sàn thấp hơn và được bảo vệ hoàn toàn, trong khi đội quân phụ trách tên lửa hoạt động trên đầu họ. Bởi thế, việc vật lộn cận chiến không phải là chức năng chủ yếu của những con thuyền này. Lớp ‘áo giáp’ được làm bằng gỗ hoặc da tê giác, và khuôn mặt của một con hổ hung dữ được vẽ ở mạn thuyền. Để chống lại những con thuyền di chuyển nhanh này, nhà Tống đã sử dụng những quả bom vôi tung ra bằng máy phóng có phản lực kéo. Những quả bom là bình bằng gốm có vỏ rất mỏng, bên trong có nhồi thuốc độc (có thể là chất arsenic), vôi và những mảnh sắt vụn cùng thuốc súng. Khi những thứ này được ném lên các tàu quân Kim, vôi bốc khói trong không khí khiến các thủy thủ của họ không thể mở mắt. Các thiết bị nổ gần giống với những ‘quả bom sấm sét’ vỏ mềm được bắn ra bởi những chiếc máy phóng dùng lực kéo. Những quả bom này có ngòi nổ kiểu hẹn giờ khiến chúng phát nổ khi chạm vào mặt nước. Vỏ các quả bom dội lại và vỡ ra, làm phân tán những đám mây độc từ vôi sống đã trộn với thuốc súng.
Việc sử dụng tàu chiến có guồng mái chèo nổi tiếng nhất trong chiến tranh của Trung Hoa diễn ra trong cuộc vây hãm thành Tương Dương (Tương Phàn ngày nay ở tỉnh Hồ Bắc) giữa các năm 1267 và 1272, cuộc chiến này đã chiến chứng kiến hành động tuyệt vọng nhất của cánh quân đoạn hậu (rearguard) của Nam Tống chống lại quân Mông Cổ đang tiến công. Ngày nay, cuộc vây hãm thành Tương Dương được biết đến nhiều nhất vì đây là dịp các máy bắn đá phản lực (counterweight trebuchets: hồi hồi pháo, ND) xuất hiện lần đầu tiên ở Trung Hoa, nhưng việc sử dụng các tàu chiến gắn guồng mái chèo cũng gây ấn tượng không kém. Hai anh hùng của nhà Tống đã điều động một đoàn tàu cứu trợ gồm 100 chiếc thuyền gắn guồng mái chèo chất đầy quần áo và các đồ tiếp tế khác để giúp đỡ hai thành phố sinh đôi bị bao vây là Tương Dương (Xiangyang) và Phàn Thành (Fancheng) nằm đối diện nhau trên dòng sông. Đoàn tàu đợi đến tối mới lên đường trở về, nhưng quân Mông Cổ đốt những đống rơm bên bờ sông để soi sáng. Các tàu guồng mái chèo của nhà Tống xếp thành một đội hình chữ nhật, mọi con tàu đều được trang bị các súng hỏa mai (firelances), các máy bắn đá và bom, than đốt cháy, rìu lớn và nỏ (cung) hạng nặng, và lái thuyền ra sông bằng cách sử dụng các đèn đỏ làm tín hiệu. Nhưng quân Mông Cổ đã bắn những quả bom có vỏ sắt từ những máy bắn phản lực và dùng lực kéo khi hạm đội nhà Tống đến gần, đến nỗi các thủy thủ nhà Tống ‘ngập máu đến mắt cá chân’. Thiết kế của những con tàu gắn guồng mái chèo này mang lại cho chúng tiềm năng tấn công cũng như phòng thủ, nhờ các tấm ván chắn ở mỗi bên hông, mỗi tấm ván dài 5 feet (khoảng 1,5m) và rộng 2 feet (0,6m). Bên dưới tấm chắn này là những ròng rọc quay cố định giống như những ròng rọc nâng cửa sổ treo lên cao. Khi tiếp cận kẻ thù, bên trong có thể ném bom, các mũi tên gây cháy và bắn súng hỏa mai. Khi gần sát kẻ thù, các thủy thủ đột ngột nhấc lên và kéo các cửa khoang của tấm chắn khiến các bức vách tác động như một khiên chắn.
Khi triều đại nhà Nguyên gần sụp đổ, một số đối thủ cạnh tranh nhau để giành quyền lực. Quá trình này đạt đến đỉnh điểm trong trận hải chiến ở Hồ Bà Dương (Poyang) vào năm 1363, nhưng ở đây chúng ta nhìn thấy một bước tiến tới quá trình đó khi một thuyền gài mìn của nhà Minh cố gắng làm nổ tung một vị trí chiến lược của nhà Hán [Trần Hán, ND]. Chất nổ được gài nổ chậm được chuyển tới kẻ thù bằng một chiếc thuyền gồm hai nửa rất khác thường, được ghép bằng các khớp nối. Nguồn gốc của những chiếc thuyền như vậy được tìm thấy trên Đại Vận Hà (Grand Canal), bị nghẽn bùn dần dần. Với hình thức một thuyền gài mìn, mục đích nhằm tiếp cận một thành phố hoặc một cây cầu dưới sự che chở của bóng tối, tháo rời phần mũi thuyền nơi chứa chất nổ, và bỏ nó lại với một cầu chì được đốt cháy, trong khi những kẻ tấn công thực hiện một cuộc chạy trốn nhanh chóng tại phần đuôi thuyền. Cuộc tấn công đã diễn ra trong sự bao trùm của bóng tối, và thủy thủ đoàn của một thuyền ‘zou ge” [tốc các, ND?] của nhà Hán [Trần Hán, ND], những con thuyền nhỏ hơn và nhanh hơn trong một hạm đội chiến đấu trên sông thông thường của Trung Hoa, đang ngủ ở phía sau. Những thuyền này có một sàn tàu bỏ ngỏ với các tấm chắn bảo vệ và chuyên chở ‘những người lính tinh nhuệ nhất và dũng cảm nhất’, những người được vận chuyển nhanh chóng đến và đi từ hiện trường hành động. Thiết kế này có nghĩa là binh lính ở trên boong tàu cùng với những người chèo thuyền.
Nguồn: Stephen Turnbull, illustrated by Wayne Reynolds, Fighting Ships of the Far East (1), China and Southeast Asia 202 BC – AD 1419, các trang 40-47, Oxford, UK: Osprey Publishing, 2002