Skip to content
  • ĐĂNG KÝ LÀM THẺ
  • ĐĂNG KÝ TẢI TÀI LIỆU SỐ
Thư viện Nguyễn Văn Hưởng

Thư viện Nguyễn Văn Hưởng

CỔNG THÔNG TIN – NVH LIBRARY'S PORTAL

  • Trang chủ
  • Giới thiệu
    • Giới thiệu thư viện
    • Đội ngũ nhân sự
    • Liên hệ
    • Báo chí
    • Tuyển dụng
  • Dịch vụ thư viện
    • Câu hỏi thường gặp
    • Bảng giá dịch vụ
    • Đăng ký làm thẻ
    • Đăng ký tài khoản Thư viện số
  • Tài nguyên
    • Blog tư liệu
    • Xuất bản
    • Tin tức
  • Danh mục sách
  • Thư viện số
  • Trưng bày trực tuyến
  • Toggle search form
  • Lịch sử và nguồn gốc đồng bào Thượng Blog tư liệu
  • Báo Thể thao và Văn hoá công bố Đề cử Giải thưởng Bùi Xuân Phái – Vì tình yêu Hà Nội 2024 Báo chí
  • Hoa ngày Tết Blog tư liệu
  • Nhà báo đoạt giải Pulitzer kể chuyện cuối tháng 4 năm 1975 Blog tư liệu
  • Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt Blog tư liệu
  • Lịch sử Trường Quốc Học Huế Blog tư liệu
  • Câu chuyện POW/MIA và chiếc vali bị mất Blog tư liệu
  • Hội thi bơi trải ở ngã ba Bạch Hạc Blog tư liệu
  • Quyết định định mệnh của Tổng thống Thiệu qua hồi ký Cao Văn Viên Blog tư liệu
  • Vài ý kiến về giáo dục mỹ thuật tại các cấp trung, tiểu học Blog tư liệu
  • Con đường thiên lý và lịch sử kết nối Anh – Việt Nam thời cận đại Báo chí
  • Phóng viên chiến trường nước ngoài và cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc Việt Nam Blog tư liệu
  • Những thiên hình vạn trạng của nạn hối lộ thời Pháp thuộc Blog tư liệu
  • Hồ sơ Lầu Năm Góc: Pháp thúc giục Mỹ can thiệp vào Điện Biên Phủ Blog tư liệu
  • Giới thiệu sách: Vietnamese colonial republican: The political vision of Vu Trong Phung Blog tư liệu

Nixon và cuộc diệt chủng Campuchia

Posted on 24/06/202524/06/2025 By editor No Comments on Nixon và cuộc diệt chủng Campuchia

Brett S. Morris[1]

Mai Anh dịch

Chế độ diệt chủng của Khmer Đỏ bắt đầu vào tháng 4 năm 1975. Quá trình trỗi dậy nắm quyền của Khmer Đỏ không thể tách rời khỏi sự can thiệp của Hoa Kỳ.

Vào ngày 17/4/1975, lực lượng Khmer Đỏ đã tấn công Phnom Penh và tái lập Campuchia thành Nhà nước Campuchia Dân chủ – một xã hội được cho là tự cung tự cấp, hoàn toàn dựa vào nông nghiệp. Đặt lại đồng hồ về “Năm số 0”, Khmer Đỏ đã buộc cư dân thành thị phải về nông thôn và bắt đầu “thanh lọc” Campuchia thông qua một cuộc thanh trừng diệt chủng đối với trí thức và các nhóm thiểu số. Vào thời điểm cuộc tàn sát kết thúc vào năm 1979 – sau khi Việt Nam tiến vào Campuchia và đánh đổ Khmer Đỏ – khoảng 1,7 triệu người (21% dân số) đã chết.

Pol Pot, thủ lĩnh của Khmer Đỏ từ năm 1963 đến năm 1997 và là Thủ tướng của Nhà nước Campuchia Dân chủ, đã trốn vào rừng. Ông ta chết vào năm 1998 mà chưa bao giờ phải đối mặt với công lý. Trên thực tế, kể từ khi Khmer Đỏ bị xóa bỏ, chỉ có ba cá nhân bị kết án vì vai trò của họ trong cuộc diệt chủng (mãi đến năm 2010 bản án đầu tiên mới được đưa ra; hai bản án còn lại được đưa ra vào năm 2014)[2].

Nhưng con đường dẫn đến quyền lực của Pol Pot, cuộc diệt chủng Campuchia và sự thiếu vắng công lý cho các nạn nhân của Khmer Đỏ không thể tách rời khỏi các chính sách can thiệp rộng hơn của Hoa Kỳ ở Đông Dương từ năm 1945 đến năm 1991 – đặc biệt là chiến dịch ném bom tàn khốc của Hoa Kỳ nhằm vào Campuchia.

Du kích Khmer Đỏ tiến vào Phnom Penh ngày 17/4/1975. Ảnh: Sjoberg/Scanpix Sweden

Ném bom và gây bất ổn

Hoa Kỳ bắt đầu ném bom Campuchia vào năm 1965. Từ năm đó cho đến năm 1973, Không quân Hoa Kỳ đã tiến hành hơn 230.000 phi vụ ném bom[3] nhắm vào hơn 113.000 địa điểm. Tổng số tấn bom được thả vẫn đang gây tranh cãi, nhưng ước tính thận trọng là 500.000 tấn (gần bằng số lượng bom mà Hoa Kỳ đã thả xuống toàn bộ chiến trường Thái Bình Dương trong Thế chiến II) là không thể nghi ngờ.

Mục tiêu rõ ràng của các cuộc ném bom là quân đội Bắc Việt và Mặt trận Giải phóng Dân tộc (“Việt Cộng”) đồn trú tại Campuchia và sau đó là quân nổi dậy Khmer Đỏ. Tuy nhiên, không thể phủ nhận rằng những chiến dịch này cũng bộc lộ sự coi thường trắng trợn đối với sinh mạng thường dân. Năm 1970, Tổng thống Richard Nixon đã lệnh cho Cố vấn An ninh Quốc gia (và sau này là Ngoại trưởng) Henry Kissinger: “Họ phải vào đó và tôi muốn nói là thực sự vào đó. Tôi không muốn tàu chiến, tôi muốn tàu trực thăng. Tôi muốn mọi thứ có thể bay vào đó và đập tan chúng. Không có giới hạn về số dặm và không có giới hạn về ngân sách. Ông đã rõ chưa?”.

Kissinger đã chuyển những lệnh này cho trợ lý quân sự của mình, Tướng Alexander Haig: “Tổng thống muốn một chiến dịch ném bom lớn ở Campuchia. Ngài không muốn nghe bất cứ điều gì. Đó là một mệnh lệnh, phải được thực hiện. Bất cứ thứ gì bay được thì hãy tấn công bất cứ thứ gì di chuyển”.

Ta sẽ không bao giờ biết được Hoa Kỳ đã giết và làm bị thương bao nhiêu người. Trong cuốn sách Ending the Vietnam War (Kết thúc Chiến tranh Việt Nam), Kissinger đã trích dẫn một bản ghi nhớ từ Văn phòng Lịch sử của Bộ trưởng Quốc phòng nêu rõ có 50.000 người Campuchia thương vong. Học giả hàng đầu về cuộc diệt chủng Campuchia, Ben Kiernan, ước tính con số có thể là từ 50.000 đến 150.000 người[4].

Một nhân chứng người Campuchia chứng kiến ​​vụ ném bom đã mô tả sự kiện như sau[5]: “Ba chiếc F-111 đã ném bom ngay giữa làng tôi, giết chết 11 người trong gia đình tôi. Cha tôi bị thương nhưng sống sót. Vào thời điểm đó, không có một người lính nào ở trong làng hoặc khu vực xung quanh làng. 27 người dân khác cũng thiệt mạng. Họ đã chạy vào một con mương để ẩn náu và rồi hai quả bom rơi thẳng vào đó”.

Chiến dịch ném bom của Hoa Kỳ ở Campuchia đã làm mất ổn định một Chính phủ vốn đã mong manh. Khi Campuchia giành được độc lập từ Pháp vào năm 1953, Hoàng thân Norodom Sihanouk đã trở thành người cai trị thực sự của đất nước. Mang quan điểm trung lập, Sihanouk có mục tiêu chính là duy trì sự toàn vẹn của Campuchia – một nhiệm vụ vô cùng khó khăn, bởi lợi ích của Hoa Kỳ, Trung Quốc và Việt Nam cũng như nhiều phe cánh tả và cánh hữu khác nhau trong nội bộ Campuchia, đều kéo Sihanouk theo những hướng khác nhau. Cố gắng thực hiện một hành động cân bằng tinh tế, ông đã khéo léo thao túng các phe phái bằng cách lợi dụng mâu thuẫn giữa họ – hôm nay hợp tác với một nhóm, hôm sau lại quay sang chống lại chính nhóm đó.

Một nhóm thách thức Sihanouk là Đảng Cộng sản Campuchia, sau này được biết đến rộng rãi với tên gọi Khmer Đỏ. Ban lãnh đạo của đảng này được chia thành hai phe: một phe thân Việt Nam và chủ trương hợp tác với Sihanouk, phe còn lại – do Pol Pot lãnh đạo – chống Việt Nam và phản đối chế độ cai trị của Sihanouk. Đến năm 1963, phe của Pol Pot đã gần như thay thế hoàn toàn phe kia, mặc dù phe kia có nhiều kinh nghiệm hơn. Cùng năm đó, ông ta chuyển đến vùng nông thôn Campuchia để lập chiến dịch nổi dậy.

Tổng thống Nixon chỉ ra các nơi trú ẩn của Quân đội Nhân dân Việt Nam dọc biên giới Campuchia trong bài phát biểu trước người dân Mỹ, công bố chiến dịch tiến công vào Campuchia, ngày 30/4/1970. Ảnh: Jack E. Kightlinger

Bốn năm sau, một cuộc nổi dậy của nông dân được gọi là Cuộc nổi dậy Samlaut nổ ra ở vùng nông thôn vì một chính sách mới buộc nông dân phải bán gạo cho Chính phủ với giá thấp hơn giá chợ đen. Để đảm bảo tuân thủ, quân đội đã đồn trú tại các cộng đồng địa phương để mua (hoặc đơn giản là lấy) gạo từ nông dân.

Vì cuộc sống khốn khó, nông dân đã phát động một cuộc nổi dậy, giết chết hai người lính. Khi cuộc nổi dậy nhanh chóng lan sang các khu vực khác của Campuchia, Pol Pot và Khmer Đỏ đã lợi dụng tình hình bất ổn, giành được sự ủng hộ của nông dân cho phong trào nổi dậy non trẻ của họ. Đến năm 1968, các nhà lãnh đạo Khmer Đỏ đã chỉ đạo các cuộc phục kích và tấn công vào các tiền đồn quân sự.

Cuộc nổi dậy của Pol Pot là một phong trào bản địa, nhưng như Kiernan lập luận, “cuộc cách mạng của ông ta sẽ không giành được quyền lực nếu Hoa Kỳ không gây bất ổn về kinh tế và quân sự tại Campuchia”[6]. Những người nông dân trước đây không tham gia chính trị đã có động lực tham gia cuộc cách mạng để trả thù cho cái chết của các thành viên gia đình họ. Như một bức điện tình báo năm 1973 từ Cục Tác chiến (Directorate of Operations) của CIA đã giải thích[7]: “Các cán bộ phiến quân Khmer Đỏ đã bắt đầu một chiến dịch đẩy mạnh tuyên truyền cho người dân Campuchia… trong nỗ lực tuyển mộ thanh niên nam nữ cho các tổ chức quân sự Khmer Đỏ. Họ đang sử dụng thiệt hại do các cuộc không kích B-52 gây ra làm chủ đề chính cho hoạt động tuyên truyền”.

Năm 1969, cuộc chiến trên không của Hoa Kỳ chống lại Campuchia đã leo thang mạnh mẽ như một phần của chính sách Việt Nam hóa của Nixon. Mục tiêu là tiêu diệt lực lượng cộng sản Việt Nam đóng tại Campuchia để bảo vệ chính quyền Nam Việt Nam do Hoa Kỳ hậu thuẫn và lực lượng Hoa Kỳ đồn trú tại đó. Vào đầu cuộc leo thang, quân số của Khmer Đỏ chưa đầy 10.000 người, nhưng đến năm 1973, lực lượng này đã tăng đến hơn 200.000 quân và dân quân.

Cuộc đảo chính do Hoa Kỳ hậu thuẫn lật đổ Sihanouk vào năm 1970 cũng là một yếu tố củng cố đáng kể phong trào nổi dậy của Khmer Đỏ. (Sự thông đồng trực tiếp của Hoa Kỳ trong cuộc đảo chính vẫn chưa được chứng minh, nhưng như William Blum đã ghi chép đầy đủ trong cuốn sách Killing Hope của mình, có đủ bằng chứng để chứng minh khả năng đó).

Việc lật đổ Sihanouk và thay thế bằng Lon Nol cánh hữu đã làm sâu sắc thêm sự tương phản giữa các phe đối lập trong Campuchia và khiến đất nước này hoàn toàn bị cuốn vào Chiến tranh Việt Nam.

Cho đến thời điểm này, giữa lực lượng cộng sản Việt Nam và lực lượng cộng sản Campuchia chỉ có sự tiếp xúc hạn chế, vì người Việt Nam chấp nhận Sihanouk là Chính phủ hợp pháp của Campuchia. Nhưng sau cuộc đảo chính, Sihanouk đã liên minh với Pol Pot và Khmer Đỏ chống lại những kẻ đã lật đổ ông, và những người cộng sản Việt Nam đã ủng hộ Khmer Đỏ hết mình trong cuộc chiến chống lại chính phủ do Hoa Kỳ hậu thuẫn.

Do đó, Khmer Đỏ được hợp thức hóa là một phong trào chống đế quốc.

Theo bức điện tình báo của CIA đã đề cập ở trên[8]: “Cán bộ [Khmer Đỏ] nói với người dân rằng Chính phủ Lon Nol, nhằm duy trì quyền lực cho riêng mình, đã yêu cầu các cuộc không kích và phải chịu trách nhiệm về thiệt hại và “nỗi khổ của những người dân làng vô tội”. Cách duy nhất để ngăn chặn “sự tàn phá nghiêm trọng của đất nước” là loại bỏ Lon Nol và đưa Hoàng thân Sihanouk trở lại nắm quyền. Những cán bộ tuyên truyền nói với người dân rằng cách nhanh nhất để thực hiện điều này là tăng cường lực lượng Khmer Đỏ để họ có thể đánh bại Lon Nol và ngăn chặn các cuộc ném bom”.

Vào tháng 1/1973, Hoa Kỳ, Bắc Việt Nam, Nam Việt Nam và lực lượng cộng sản Nam Việt Nam ký Hiệp định Hòa bình Paris. Lực lượng Hoa Kỳ rút khỏi Việt Nam, chấm dứt các cuộc ném bom Việt Nam và Lào.

Tướng Lon Nol năm 1970. Ảnh: Ian Brodie / Hulton Archive

Tuy nhiên, chính quyền Nixon vẫn tiếp tục ném bom Campuchia để bảo vệ chính quyền Lon Nol chống lại lực lượng Khmer Đỏ. Đối mặt với sự phản đối dữ dội trong nước và Quốc hội, Nixon buộc phải chấm dứt chiến dịch vào tháng 8/1973 sau khi đạt được thỏa thuận với Quốc hội.

Trong một năm rưỡi tiếp theo, cuộc nội chiến vẫn tiếp tục diễn ra giữa chính quyền và Khmer Đỏ. Khmer Đỏ đã chiếm được nhiều tỉnh và vùng nông thôn rộng lớn, và cuối cùng họ đã kiểm soát được Phnom Penh vào tháng 4/1975.

Ủng hộ Khmer Đỏ

Bản đồ địa chính trị liên tục biến động sau Chiến tranh Việt Nam. Bắc Việt Nam đã thành lập một Chính phủ lâm thời ở Nam Việt Nam cho đến khi đất nước thống nhất vào năm 1976, và Washington quyết tâm cô lập chính phủ cộng sản. Đồng thời, Hoa Kỳ tìm cách thiết lập quan hệ gần gũi hơn với Trung Quốc như một cách để phân phối lại quyền lực toàn cầu khỏi Liên Xô; họ coi Campuchia là một đối trọng có thể hữu ích.

Vào tháng 11/1975 – 7 tháng sau khi lực lượng Khmer Đỏ giành quyền kiểm soát Phnom Penh – Henry Kissinger nói với Bộ trưởng ngoại giao Thái Lan rằng ông “nên nói với [Khmer Đỏ] rằng chúng tôi không thù địch với họ. Chúng tôi muốn họ độc lập như một đối trọng với Bắc Việt Nam”[9]. Kissinger nói thêm rằng ông “cũng nên nói với người Campuchia rằng chúng tôi sẽ làm bạn với họ. Họ là một lũ côn đồ sát nhân, nhưng chúng tôi sẽ không để điều đó gây cản trở. Chúng tôi đã sẵn sàng cải thiện quan hệ với họ”.

Một tháng sau, trong các cuộc thảo luận giữa Tổng thống Gerald Ford, Kissinger và Suharto (nhà độc tài Indonesia được Hoa Kỳ hậu thuẫn)[10], Ford lưu ý: “Chúng tôi sẵn sàng hành động chậm rãi trong quan hệ với Campuchia, hy vọng có thể làm chậm lại ảnh hưởng của Bắc Việt Nam mặc dù chúng tôi thấy Chính phủ Campuchia rất khó nhằn”. Kissinger lặp lại những ý này, nói rằng “chúng tôi không thích Campuchia, vì Chính phủ của họ ở nhiều khía cạnh còn tệ hơn Việt Nam, nhưng chúng tôi muốn họ độc lập. Chúng tôi không ngăn cản Thái Lan hay Trung Quốc xích lại gần Campuchia hơn”.

Từ trái qua phải: Ngoại trưởng Hoa Kỳ Henry Kissinger, Tổng thống Hoa Kỳ Gerald Ford, Tổng thống Indonesia Suharto, Bộ trưởng Ngoại giao Indonesia Adam Malik trong cuộc gặp tại Jakarta, Indonesia, ngày 6/12/1975. Ảnh: David Hume Kennerly

Nhưng Khmer Đỏ chủ yếu sẽ vạch ra một lộ trình cô lập, tập trung vào kế hoạch xây dựng một xã hội nông nghiệp tự cung tự cấp, kết thúc bằng thảm sát hàng loạt.

Cuối năm 1978, trong một cuộc leo thang tranh chấp biên giới, Việt Nam đã tiến đánh Campuchia và lật đổ chính phủ Khmer Đỏ vào đầu năm 1979. Lực lượng Khmer Đỏ chạy đến miền tây Campuchia giáp biên giới Thái Lan để bắt đầu một chiến dịch du kích chống lại Chính phủ Campuchia mới do Việt Nam dựng lên. Cuộc diệt chủng mà Khmer Đỏ dàn dựng đã kết thúc, nhưng giờ đây các bên nước ngoài vị kỷ, bao gồm Hoa Kỳ và Trung Quốc, đã chọn hỗ trợ du kích Khmer Đỏ trong chiến dịch chống lại sự chiếm đóng của Việt Nam, như một phần của chính sách chung là cô lập Việt Nam.

Một phương pháp chính để đạt được mục đích này là Hoa Kỳ hỗ trợ Trung Quốc công khai viện trợ cho du kích Khmer Đỏ. Theo tờ New York Times đưa tin[11], “chính quyền Carter đã giúp sắp xếp viện trợ liên tục của Trung Quốc” cho du kích Khmer Đỏ. Zbigniew Brzezinski, Cố vấn An ninh quốc gia của Jimmy Carter, giải thích rằng ông “khuyến khích Trung Quốc hỗ trợ Pol Pot”. Theo một bản tin từ Associated Press[12], các cơ quan tình báo Hoa Kỳ ước tính rằng Trung Quốc đã cung cấp cho du kích Khmer Đỏ khoảng 100 triệu đô la viện trợ quân sự mỗi năm trong suốt những năm 1980.

Hoa Kỳ, Trung Quốc cùng một số quốc gia châu Âu và châu Á khác cũng đã hỗ trợ ngoại giao cho Khmer Đỏ khi công nhận họ là chính phủ hợp pháp của Campuchia và đưa họ vào Liên hợp quốc. Cho đến năm 1989, Hoa Kỳ thậm chí còn không chịu gọi những gì Khmer Đỏ đã làm từ năm 1975 đến năm 1979 là diệt chủng để không cản trở những nỗ lực ủng hộ phong trào du kích[13].

Sự ủng hộ còn đến theo những cách khác. Theo Kiernan, Hoa Kỳ đã chi hàng chục triệu đô la để tài trợ cho các du kích liên minh với lực lượng Khmer Đỏ trong suốt những năm 1980 và gây sức ép buộc các cơ quan cứu trợ của Liên hợp quốc cung cấp thêm viện trợ “nhân đạo” dưới dạng thực phẩm và quần áo cho quân Khmer Đỏ ẩn náu gần biên giới Thái Lan, qua đó giúp Khmer Đỏ tiến hành chiến dịch chống lại người Việt Nam.

Hiệp định Hòa bình Toàn diện Campuchia được ký kết tại Paris vào ngày 23/10/1991. Ảnh: AFP

Năm 1989, Việt Nam rút quân khỏi Campuchia. Hai năm sau, đại diện của Liên hợp quốc và 19 quốc gia (trong đó có Hoa Kỳ, Trung Quốc, Campuchia và Việt Nam) đã ký các hiệp định hòa bình với du kích Khmer Đỏ và các đồng minh của họ để chấm dứt xung đột. Nhưng sự ủng hộ của Hoa Kỳ đối với Pol Pot và Khmer Đỏ vẫn tiếp tục sau các hiệp định hòa bình. Phải đến năm 1997, “Hoa Kỳ mới bật đèn xanh cho việc truy bắt thủ lĩnh Khmer Đỏ đang lẩn trốn [Pol Pot]”[14]. Các phiên tòa xét xử các nhà lãnh đạo Khmer Đỏ có thể đã gây khó xử cho nhiều bên, đặc biệt là một số người ở Washington.

Cựu Bộ trưởng Ngoại giao Khmer Đỏ Ieng Sary trong phiên điều trần trước khi xét xử tại Tòa án xét xử Khmer Đỏ ở ngoại ô Phnom Penh vào ngày 30/6/2008. Ảnh: Reuters

Thật vậy, khi Tòa án xét xử Khmer Đỏ (tên chính thức là Tòa đặc biệt tại Tòa án Campuchia) được thành lập vào năm 2003, sau nhiều năm đàm phán với Liên hợp quốc, tòa án này đã rõ ràng chỉ chọn xét xử các tội ác[15] do các nhà lãnh đạo Khmer Đỏ gây ra khi họ chỉ đạo cuộc diệt chủng 1975 – 1979, bỏ qua tội của Hoa Kỳ đã giúp nuôi dưỡng và duy trì Khmer Đỏ.

Các nạn nhân của Khmer Đỏ đã nhận được rất ít công lý và họ khó có thể nhìn thấy công lý. Các cường quốc (đặc biệt là Hoa Kỳ) không quan tâm đến việc cung cấp một bản tường trình trung thực trước hết về lý do tại sao Khmer Đỏ lên nắm quyền, hoặc cách Hoa Kỳ hỗ trợ họ và bao che cho họ khỏi công lý trong nhiều thập kỷ, ngay cả sau khi họ bị lật đổ.

Dường như những bài học được rút ra về hậu quả của sự can thiệp của Hoa Kỳ vào Campuchia vẫn chưa được ghi nhớ. Như nhà báo John Pilger đã chỉ ra[16], cũng giống như sự tàn phá khủng khiếp ở Campuchia do chiến dịch ném bom của Hoa Kỳ gây ra đã góp phần tạo điều kiện cho sự trỗi dậy của Khmer Đỏ, cuộc xâm lược Iraq của Hoa Kỳ cũng đã phá hủy một xã hội và tạo tiền đề cho sự trỗi dậy của ISIS. Và cũng giống như Hoa Kỳ đã hỗ trợ những kẻ thù cũ của mình ở Campuchia chống lại Việt Nam trong suốt những năm 1980, Washington đã tham gia vào một liên minh ngầm[17] với các nhóm thánh chiến ở Syria chống lại chính phủ của Bashar al-Assad.

Thật vậy, nếu chúng ta có thể mong đợi bất cứ điều gì từ chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ, thì đó là những hành động tàn bạo và sự đồng lõa, được che đậy bằng ngôn ngữ dân chủ và nhân quyền.■


[1] Nguồn: Brett S. Morris, “Nixon and the Cambodian Genocide,” Jacobin.com, 27/4/2015. Brett S. Morris là nhà báo tự do và là tác giả của cuốn sách 21 Lies They Tell You About American Foreign Policy (21 lời nói dối về chính sách đối ngoại Hoa Kỳ).

[2] Elizabeth Becker, “Decades After Khmer Rouge’s Rule, 2 Senior Leaders Are Convicted in Cambodia,” New York Times, 8/8/2014.

[3] Taylor Owen và Ben Kiernan, “Bombs Over Cambodia,” The Walrus, 10/2006, https://gsp.yale.edu/sites/default/files/walrus_cambodiabombing_oct06.pdf

[4] Ben Kiernan, How Pol Pot Came to Power: Colonialism, Nationalism, and Communism in Cambodia, 1930–1975 (New Haven: Yale University Press, 2004).

[5] Ben Kiernan, “The American Bombardment of Kampuchea, 1969–1973,” Vietnam Generation 1, no. 1 (1989): 4–41.

[6] Ben Kiernan, The Pol Pot Regime: Race, Power, and Genocide in Cambodia under the Khmer Rouge, 1975–79 (New Haven: Yale University Press, 2002).

[7] Kiernan, “The American Bombardment of Kampuchea,” 4–41.

[8] Kiernan, “The American Bombardment of Kampuchea,” 4–41.

[9] “Memorandum of Conversation, November 26, 1975,” National Security Archive, https://nsarchive2.gwu.edu/NSAEBB/NSAEBB193/HAK-11-26-75.pdf.  

[10] “Memorandum, Kissinger to Ford on Cambodia,” National Security Archive, https://nsarchive2.gwu.edu/NSAEBB/NSAEBB62/doc4.pdf.

[11] Elizabeth Becker, “Death of Pol Pot: The Diplomacy; Pol Pot’s End Won’t Stop U.S. Pursuit of His Circle,” New York Times, 17/4/1998.

[12] Peter Eng, “China Is Rebuilding a Country It Helped to Destroy in 13-Year War,” Los Angeles Times, 20/9/1992.

[13] Becker, “Death of Pol Pot.”

[14] Becker, “Death of Pol Pot.”

[15] “Introduction to the ECCC,” Extraordinary Chambers in the Courts of Cambodia, http://www.eccc.gov.kh/en/about-eccc/introduction

[16] John Pilger, “From Pol Pot to ISIS: ‘Anything That Flies on Everything That Moves,’” JohnPilger.com, 8/10/2014.

[17] Patrick Cockburn, “How the US Helped ISIS Grow Into a Monster,” Mother Jones, 21/8/2014.

Blog tư liệu Tags:1975, Campuchia, Khmer Đỏ, Pol Pot

Post navigation

Previous Post: 50 năm sau khi Sài Gòn thất thủ: Hồi tưởng của Nayan Chanda

More Related Articles

Diễn văn đối ngoại của Tổng thống Ford về Việt Nam và Campuchia Blog tư liệu
Phản ứng và lý lẽ của người Mỹ sau sự sụp đổ của chính quyền Sài Gòn tháng 4/1975 Blog tư liệu
Pol Pot: Mổ xẻ một cơn ác mộng Xuất bản
“Trại May Mắn” thẳng tiến Blog tư liệu
Tháng 4 năm 1975 đầy ám ảnh qua hồi ức của nhân viên CIA Blog tư liệu
Quyết định định mệnh của Tổng thống Thiệu qua hồi ký Cao Văn Viên Blog tư liệu

Leave a Reply Cancel reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

  • Tạp chí Phương Đông Official Channel
  • Thư viện Nguyễn Văn Hưởng Fanpage
Tạp chí Phương Đông số tháng 10-2024

Chuyên đề

  • Việt Nam trên báo Mỹ
  • Tạp chí Phương Đông

Kết nối với chúng tôi

Nguồn tài liệu

  • The Vietnam Center and Sam Johnson Vietnam Archive
  • MSU Vietnam Group Archive
  • The Wilson Center Digital Archive
  • The National Security Archive
  • CIA Historical Collections
  • Office of the Historian – U.S. Department of State
  • National Archives
  • Internet Archive
  • United Nations Archives
  • Journal of Vietnamese Studies
  • Harvard-Yenching Library
  • Yale University Digital Collections: Maurice Durand Han Nom
  • Digital Libraries – Gallica – BnF
  • Les Archives nationales d’outre-mer
  • Bulletin de l’École française d’Extrême-Orient
  • Sách Đông Dương – Thư viện QGVN
  • Thư tịch Hán Nôm – Thư viện QGVN
  • Báo chí số hóa – Thư viện QGVN

Bài mới

  • Nguyễn Trung Trực – một “Kinh Kha” chống Pháp của miền Nam
  • Tài liệu giải mật Nixon, Kissinger và những kế hoạch theo chiến lược “Kẻ điên rồ” trong năm 1969
  • Nixon và cuộc diệt chủng Campuchia
  • Phóng viên chiến trường nước ngoài và cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc Việt Nam
  • Tầm nhìn từ Lịch sử

Lưu trữ

TRƯNG BÀY KỶ VẬT CHIẾN SĨ

Tags

1945 1954 1975 Bảo Đại Báo chí Chiến tranh Việt Nam Chiến tranh Đông Dương chế độ thực dân chủ nghĩa thực dân Chủ tịch Hồ Chí Minh CIA Cách mạng Tháng Tám giới thiệu sách Hoa Kỳ Huế Hồ Chí Minh Hà Nội Mỹ nghệ thuật ngoại giao Ngô Đình Diệm Ngô Đình Nhu Nhật phong trào phản chiến phong tục phản chiến Pháp POW/MIA Quan hệ Việt - Mỹ Sài Gòn thuộc địa Thập niên 1960 Thực dân Pháp triều Nguyễn Tết tình báo Vietnam War Việt Minh Việt Nam Cộng hòa Việt Nam thời hậu chiến Việt Nam trên báo Mỹ văn hóa Đảo chính Đông Dương Đông Nam Á

Đăng ký

  • ĐĂNG KÝ LÀM THẺ
  • ĐĂNG KÝ TẢI TÀI LIỆU SỐ
  • Nước mắt mùa thu Xuất bản
  • Một góc nhìn thời cuộc Xuất bản
  • Chợ Lớn 1955: Ký và họa Xuất bản
  • Đối thoại với các phái đoàn Hoa Kỳ Xuất bản
  • Những biên bản cuối cùng tại Nhà Trắng: Phút sụp đổ của Việt Nam Cộng Hòa Xuất bản
  • Cuộc chiến của tôi với CIA: Hồi ký của Hoàng thân Norodom Sihanouk Xuất bản
  • Giải phóng Xuất bản
  • Thế giới đang thay đổi – Trật tự đa cực xuất hiện Xuất bản
  • Nước Nga trong thế giới đa cực Xuất bản
  • Chuyến thăm Hà Nội Xuất bản
  • Con đường thiên lý: Hành trình kỳ lạ của các sứ bộ Anh Quốc tới Việt Nam thế kỷ 17 – 19 Xuất bản
  • Pol Pot: Mổ xẻ một cơn ác mộng Xuất bản
  • Biển Đông – Nhìn từ góc độ lịch sử và pháp lý Xuất bản
  • Miền đất vàng Đông Dương Xuất bản
  • Tầm nhìn từ Lịch sử Xuất bản

Copyright © 2025 Thư viện Nguyễn Văn Hưởng.