Co Rentmeester, Larry Burrows và Tim Page
Phan Xích Linh dịch
Tạp chí Phương Đông giới thiệu với bạn đọc phóng sự ảnh của Co Rentmeester, Larry Burrows và Tim Page, cùng bài viết của Roy Rowan, về tình hình chiến sự ác liệt ở miền Nam Việt Nam đăng trên Tạp chí LIFE số ra ngày 17/5/1968 trong bối cảnh Hội nghị Paris chuẩn bị khai mạc. Khi chuyển ngữ, chúng tôi giữ nguyên lối hành văn của các tác giả để đảm bảo tính khách quan.
*
Cuộc đụng độ bất ngờ trong một nghĩa trang cũ của người Pháp
Tại Paris đàm phán hòa bình được nhóm họp…
Ta ta, t’an t’an. Chỉ có giai điệu tiếng Trung giật cục của câu cách ngôn Mao Trạch Đông cũ kĩ này mới có thể giải thích cho chiến lược của Bắc Việt. Đánh đánh, đàm đàm.
Tại Sài Gòn, quân cộng sản gieo rắc kinh hoàng trên đường phố trong cuộc tổng tiến công dữ dội nhất kể từ Tết. Tại Paris, Xuân Thủy, một nhà cách mạng trọn đời trong bộ com lê trang trọng, ngồi xuống bàn đàm phán kết thúc chiến tranh.
Câu khẩu lệnh của Mao từng có hiệu quả khi đối chọi với Hoa Kỳ ở Triều Tiên và thậm chí còn có sức tàn phá khi đấu với quân Pháp ở Đông Dương – Điện Biên Phủ rơi vào tay những người cộng sản chỉ một ngày trước khi hội nghị Geneva bắt đầu. Người đứng đầu nhóm đàm phán của Hoa Kì tại Paris, Averell Harriman, đã trải nghiệm trực tiếp chiến thuật đánh-và-đàm; ông từng ngồi đối diện với Xuân Thủy phía bên kia bàn đàm phán trong khi những nỗ lực dàn xếp cuộc chiến ở Lào kéo dài tới 15 tháng.
Lúc này, hai ngày sau khi đồng ý bắt đầu đàm phán tại Paris, Bắc Việt đột ngột leo thang hoạt động chiến sự. Sau khi nã pháo cối vào các thành phố, thị trấn và căn cứ từ Đông Hà vào Nam đến tận đồng bằng sông Mekong, các đoàn quân cộng sản cũng tấn công hàng tá công trình. Tại Sài Gòn mục tiêu quan trọng nhất là Chợ Lớn, khu người Hoa, và căn cứ không quân Hoa Kỳ tại Tân Sơn Nhứt, nơi quân Việt Cộng và quân chính quy Bắc Việt – với nhóm thứ hai, đây là lần đầu tiên họ tham chiến toàn lực ở Sài Gòn – thọc sâu xung quanh hai nghĩa trang. Lính Việt Nam Cộng hòa phản công bằng xe tăng, và với sự hỗ trợ của bộ binh và trực thăng chiến đấu của Hoa Kỳ, đẩy quân địch đang cố thủ ra khỏi từng ngôi nhà.
Các tài liệu thu giữ được từ Việt Cộng cho thấy những vụ tấn công này được thực hiện như một nhiệm vụ tâm lí ngắn hạn “để gây áp lực trên bàn đàm phán tại Paris”. Tuy nhiên tình báo Hoa Kỳ dự đoán rằng Bắc Việt đang xây dựng lực lượng cho một cuộc tổng tiến công kéo dài ở miền Nam. Từ khi cuộc mặc cả về địa điểm tổ chức đàm phán khởi sự hồi đầu tháng Tư, Hà Nội đã đổ hàng đoàn xe tải khổng lồ chở khoảng 35.000 tân binh vào miền Nam và đã tận dụng giai đoạn kiềm chế ném bom của Hoa Kỳ để nạo vét các khu cảng bị tắc nghẽn, nơi vũ khí được dỡ xuống từ các tàu vận tải. Trong khi các nhà ngoại giao của họ đàm phán, những chiến binh cộng sản rõ ràng sẵn sàng chấp nhận mức độ thương vong nặng nề của kiểu chiến tranh tâm lí đẫm máu ấy.
Nét mặt nhiều khả năng sẽ chỉ thay đổi chút ít. Đôi mắt sáng sẽ chằm chằm nhìn thẳng sang phía bên kia bàn đàm phán. Mái tóc đen bóng mượt, bộ com lê nhẹ và chiếc cà vạt lụa sẽ gọn gàng và đúng mực. Lời nói của Xuân Thủy sẽ là những bài diễn thuyết lê thê của một cán bộ tuyên giáo và nhà đàm phán cộng sản chuyên nghiệp, làm tê liệt trí óc và xói mòn sự kiên nhẫn. Ông chính là hiện thân của cỗ máy tuyên truyền cổ động kiểu cộng sản đặc trưng, với sự kết hợp tổng hòa các kĩ năng của một nhà hùng biện, cán bộ khu vực, phóng viên, nhà tâm lí học xã hội, nhà ngoại giao, người truyền bá chủ nghĩa Mác – và thường là với tất cả những khiếm khuyết của các nghề nghiệp trên. Một đại biểu phương Tây từng tham dự hội đàm về Lào, nơi Xuân Thủy đảm nhận vai trò phó chủ tịch đoàn đàm phán Bắc Việt, nhớ lại cách cư xử của ông ở đó: “Có những kẻ cứng rắn, những người ở giữa và những kẻ mềm mỏng. Phía Trung Quốc toàn người cứng rắn và Xuân Thủy sát cánh với họ từ đầu đến cuối. Ông ta không nói quá nhiều, nhưng mỗi khi ông ta mở miệng thì chẳng có lợi gì cho chúng ta”.
Dù không có nhiều thông tin được biết đến về đời sống riêng của ông Xuân Thủy – ông đã có gia đình, có con và làm thơ – cuộc đời ông trong vai trò nhà cách mạng thì được ghi lại đầy đủ và xuyên suốt. Ông sinh năm 1912 và tham gia vào Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh ở tuổi 14 để chiến đấu chống lại sự cai trị của Pháp ở Đông Dương. Ông từng bị Pháp bắt hai lần trong những năm 1920, và sau đó lại bị họ bỏ tù vào thời điểm nổ ra Đệ nhị Thế chiến. Được thả vào năm 1945, Xuân Thủy trở thành Tổng Biên tập tờ báo chính thức của Việt Minh. Năm 1950 ông bắt đầu thực hiện các chuyến công du khắp thế giới, giúp ông trở thành một trong những nhà ngoại giao Việt Nam giàu kinh nghiệm ở nước ngoài nhất. Mười ba năm sau, sau khi đảm nhận vai trò trong phái đoàn hội nghị Geneva về Lào, ông trở thành Bộ trưởng Ngoại giao, rồi năm 1965 thì bị cho thôi chức và nghỉ hưu với lí do bề ngoài là sức khỏe yếu. Một nhà ngoại giao Hoa Kỳ cho rằng ông được đưa trở lại chính trường lần này để dẫn đầu phái đoàn đến Paris bởi vì ông làm tốt chuyện này, lại không thuộc phe nhóm nào trong đảng, và từng có kinh nghiệm thương thuyết với Averell Harriman.
Người số hai sau ông Xuân Thủy ở Paris là Đại tá Hà Văn Lâu, một quân nhân đã tham gia chiến tranh du kích chống Pháp ở Đông Dương, sau đó góp phần đàm phán hòa bình với Pháp năm 1954. Ông cũng từng là thành viên phái đoàn Bắc Việt ở hội nghị về Lào. Cao ráo và rắn rỏi, ông nói tiếng Pháp trôi chảy, có tác phong thu hút và đầu óc cứng rắn.
Không ai kì vọng ông Thủy và ông Lâu hành động nhanh chóng trong phiên đàm phán. Một nhà ngoại giao Pháp có kinh nghiệm nhiều năm thương thảo với Bắc Việt dự báo: “Trước tiên Xuân Thủy sẽ một mực đòi kết thúc gây hấn. Sau đó ông ta sẽ đưa ra định nghĩa của mình về gây hấn. Chuyện này sẽ tốn nhiều thời gian. Thời gian chẳng có ý nghĩa gì với người Việt cả – họ sẽ đánh và đàm. Họ đã làm điều đó với chúng tôi. Họ sẽ tiếp tục làm thế với các ông”.
Tại Sài Gòn, đối phương gây sức ép mạnh mẽ
Máu đổ tháng Năm, hòa bình tháng Sáu
Roy Rowan
Phan Xích Linh dịch
Việc quân địch đột ngột xuất hiện trên đường phố Sài Gòn là một phần trong kịch bản mà các tướng lĩnh Hoa Kỳ tại Việt Nam đã theo dõi diễn biến được ít lâu. Tướng Westmoreland đã tuyên bố từ nhiều tuần trước khi có bất kì triển vọng nào về hội nghị Paris rằng “mục tiêu của quân địch là đến bàn đàm phán với những con át chủ bài trong tay”. Nhưng thu thập quân át chủ bài đòi hỏi một chiến lược hoàn toàn mới từ phe cộng sản. Nó bao gồm từ bỏ cuộc chiến tranh hao mòn kéo dài và thay vào đó tìm cách thực hiện những màn trình diễn đẫm máu trên quy mô lớn có khả năng tạo ra ảnh hưởng lớn nhất về tâm lí. Chiến thuật đánh nhanh rút nhanh của Việt Cộng trước đây, mà Westmoreland ví như một đàn mối – “truy đuổi quân Việt Cộng giống như cố gắng tìm giết lũ mối bằng một cái tua vít”, đã gieo rắc kinh hoàng trên khắp vùng nông thôn, nhưng không đem lại chiến thắng lớn nào cho phe cộng sản cả. Hà Nội cuối cùng đã quyết định rằng sự kiên trì và thời gian có lẽ không thực sự đứng về phía họ. Trung tướng Frederick Weyand, Tư lệnh Lực lượng Chiến trường II phát biểu: “Quân địch bỗng nhiên sẵn sàng chấp nhận thương vong rất nặng nề, họ không còn né tránh hỏa lực của ta nữa”. Sáu tuần trước, tướng Weyand đã dự đoán rằng quân địch sẽ phát động một cuộc tấn công lớn nữa vào Sài Gòn và một lần nữa sẽ phải chịu mức thương vong khổng lồ. “Họ đang gặp vấn đề trong việc đánh giá năng lực quân sự của chính họ”, vị tướng nhận xét. “Các đơn vị trên chiến trường có lẽ không thể làm được những điều Hà Nội hô hào họ phải làm”.
Từ một tháng trước đã có những dấu hiệu từ khu phi quân sự vào tới vùng đồng bằng sông Mekong rằng khao khát giành được những thắng lợi tinh thần hoành tráng vượt trên mọi sự của Hà Nội đang tạo ra nhiều vấn đề nghiêm trọng cho cả quân Việt Cộng và các đơn vị quân chính quy Bắc Việt trên chiến trường. Việt Cộng bắt đầu cho thấy dấu hiệu mệt mỏi với chiến tranh và sự thiếu hụt vai trò lãnh đạo. Việc thiếu binh lính buộc quân Việt Cộng ở một số nơi phải thu nạp cả trẻ em ở tuổi mười ba để thay thế cho quân số đã bị thiệt hại (“Tuy nhiên”, một sĩ quan Hoa Kì nhận định, “một đứa trẻ không được huấn luyện cũng vẫn có thể giết người”). Các đơn vị quân Việt Cộng mới kém thiện chiến hơn nhiều so với các đơn vị cũ, và trong số các tù binh bị bắt giữ, rất ít người có thời gian tham gia chiến đấu nhiều hơn sáu tháng.
Điều đang làm thay đổi tính chất của cuộc chiến còn nhiều hơn nữa là việc Hà Nội bổ sung các lính chính quy Bắc Việt vào nhiều đơn vị Việt Cộng quân bị tổn thất. Vì những lính chính quy này xa lạ với miền Nam, họ không thể trà trộn vào vùng nông thôn. Khi đi tuần tra, họ cần có người dẫn đường, nếu không họ sẽ đi lạc. Tất cả những điều này có nghĩa là cách duy nhất để lính Bắc Việt hoạt động hiệu quả ở miền Nam là chiến đấu trong các đội quân lớn có tổ chức. Do đó những cuộc tấn công trực diện hao tổn sinh mạng như cuộc tấn công vào Sài Gòn không phải là vấn đề lựa chọn quân sự mà là điều bắt buộc phải làm.
Giao tranh trên đường phố Sài Gòn không làm Hoa Kỳ xao lãng chú ý vào mối nguy hiểm trong thung lũng rậm rạp A Sầu. Từ trên những ngọn đồi nhìn xuống Khe Sanh, xuyên qua Lào và vùng phi quân sự, các đoàn quân xâm nhập từ Bắc Việt vẫn không ngừng đổ vào A Sầu. Người ta đã chụp được hình ảnh xe ủi đất táo tợn mở đường cho xe tải và xe tăng men theo các triền núi dốc. Các đoàn quân luồn sâu trong thung lũng (“Ta chỉ có thể tìm ra họ khi đã tới gần trong phạm vi 5 mét”, các cựu binh từng chiến đấu ở A Sầu nói vậy) có thể đang sửa soạn cho cuộc tấn công lần thứ hai vào Huế. Một trong những đòn tâm lí chí mạng mà Hà Nội có thể đưa ra vào thời điểm bắt đầu hòa đàm ở Paris chính là việc chiếm lại Huế, nơi những thành lũy xa xưa thường gây nhiều khó khăn cho việc xua quân địch ra khỏi nơi cố thủ.
Hà Nội còn đang che giấu những bất ngờ nào nữa để tung ra trước mặt Hoa Kỳ trong khi đàm phán? Nhiều sĩ quan tình báo ở Việt Nam tin rằng có thể đây sẽ là những bất ngờ về công nghệ: tên lửa tầm nhiệt “mắt đỏ” để bắn hạ trực thăng, tên lửa tầm ngắn đất-đối-đất “con ếch” với mục tiêu là các căn cứ quân nhu của chúng ta, các trận không kích rải rác vào đô thị miền Nam hay thậm chí một cuộc tấn công cảm tử vào một tàu sân bay Hoa Kỳ trên Vịnh Bắc Bộ. “Ta hãy thú thật rằng”, một viên tướng Hoa Kỳ phát biểu, “chúng ta đã hoàn toàn bất ngờ với toàn bộ các vũ khí mới mà họ đem ra sử dụng trong cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân. Dù không phải là không còn những đơn vị Việt Cộng vẫn còn kéo lê các khẩu súng trái phá cũ kĩ từ thời Đệ nhị Thế Chiến mà chúng ta đã cấp cho Tưởng Giới Thạch, rồi Tưởng Giới Thạch để rơi vào tay Mao Trạch Đông, Mao Trạch Đông lại đem đưa cho Hồ Chí Minh, và Hồ Chí Minh đem trang bị cho Việt Cộng”.
Tướng Westmoreland sẽ không bao giờ thừa nhận rằng quân địch đã thu thập được tất cả các quân át chủ bài mà họ cần trên bàn đàm phán. Việt Cộng và Bắc Việt đã đưa ra nhiều hứa hẹn rộng rãi mà họ có thể không có khả năng giữ đúng. Từ tháng Ba tới nay, khẩu hiệu của phe cộng sản ở miền Nam là “máu đổ tháng Năm, hòa bình tháng Sáu”. Họ đã làm đúng nửa đầu, nhưng ít người ở Việt Nam cho rằng họ có thể thực hiện được nửa sau. Thực sự, những bộ óc quân sự trầm tĩnh của Hoa Kỳ tin rằng ý nghĩa quan trọng sâu sắc nhất của việc quân địch theo đuổi những thắng lợi tinh thần lớn là Hà Nội không còn thực sự tin rằng họ có thể giành được chiến thắng quân sự.■
Từ cách xa nửa vòng trái đất – hi vọng