Skip to content
  • ĐĂNG KÝ LÀM THẺ
  • ĐĂNG KÝ TẢI TÀI LIỆU SỐ
Thư viện Nguyễn Văn Hưởng

Thư viện Nguyễn Văn Hưởng

CỔNG THÔNG TIN – NVH LIBRARY'S PORTAL

  • Trang chủ
  • Giới thiệu
    • Giới thiệu thư viện
    • Đội ngũ nhân sự
    • Liên hệ
    • Báo chí
    • Tuyển dụng
  • Dịch vụ thư viện
    • Câu hỏi thường gặp
    • Bảng giá dịch vụ
    • Đăng ký làm thẻ
    • Đăng ký tài khoản Thư viện số
  • Tài nguyên
    • Blog tư liệu
    • Xuất bản
    • Tin tức
  • Danh mục sách
  • Thư viện số
  • Trưng bày trực tuyến
  • Toggle search form
  • Việt Nam và các Đông Ấn công ty Blog tư liệu
  • Ghi chú mật và báo cáo giám sát của Pháp về Nguyễn Ái Quốc năm 1920 Blog tư liệu
  • Book review: Chợ Lớn 1955 Báo chí
  • Hồ Chủ tịch nói về nội trị, ngoại giao nước nhà trong những ngày đầu độc lập Blog tư liệu
  • Cựu binh Mỹ trở về từ Việt Nam: Chiến đấu để rồi bị bỏ mặc Blog tư liệu
  • Thanh niên trí thức Việt Nam đi vào cuộc Cách mạng Tháng Tám như thế nào? Blog tư liệu
  • Tội phản quốc của tên Việt gian Quản Dưỡng với cuộc nổi dậy của dân chúng Hà Đông Blog tư liệu
  • Bên kia chiến tuyến: Bắc Việt học cách sống chung với bom đạn Blog tư liệu
  • Thành Tây Đô: Công trình kiến trúc cổ bằng đá nổi tiếng Blog tư liệu
  • Thái Nguyên trong ngày Tổng khởi nghĩa Blog tư liệu
  • Hà Nội mùa đông năm 1946 – Bản hùng ca kiên cường Blog tư liệu
  • Việt Nam trên báo Mỹ: Ở miền Bắc Việt Nam Blog tư liệu
  • Hiệp định sơ bộ 6/3/1946 – Sách lược đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta – qua tài liệu của Pháp Blog tư liệu
  • Hồ Chí Minh – Một con người kiên định Blog tư liệu
  • Cuộc chiến đầu tiên trên truyền hình Blog tư liệu

Giáo dục dưới thời Toàn quyền Albert Sarraut và Martial Merlin

Posted on 25/11/202525/11/2025 By editor No Comments on Giáo dục dưới thời Toàn quyền Albert Sarraut và Martial Merlin

Jean Baptiste Alberti

Lê Hằng Nga dịch

Từ góc nhìn của nhiều học giả và nhân chứng phương Tây đầu thế kỷ XX, người An Nam xưa hiện lên qua những lát cắt vừa quen thuộc lại vừa mới lạ. Tạp chí Phương Đông trích dịch và sẽ lần lượt giới thiệu tới độc giả một số nội dung trong cuốn L’Indochine d’autrefois et aujourd’hui (Đông Dương xưa và nay) xuất bản năm 1934 của tác giả Jean Baptise Alberti. Mở đầu là phần nói về hệ thống giáo dục Pháp – Việt dưới thời các Toàn quyền Albert Sarraut và Martial Merlin. Các chi tiết, từ ngữ trong bài thể hiện quan điểm của tác giả, chúng tôi giữ nguyên văn để đảm bảo tính khách quan.

Toàn quyền Albert Sarraut (1917 -1919)

1. Giáo dục tiểu học

a. Trường sơ cấp (nông thôn) – Trường tiểu học hoàn chỉnh (thành thị)

Giáo dục tiểu học bao gồm Sơ học yếu lược – bậc một, và Sơ đẳng tiểu học hay bổ túc, tức bậc hai.

Giáo dục tiểu học bậc một được chia thành 5 lớp, gồm: lớp đồng ấu, lớp dự bị, lớp sơ cấp, lớp Nhì (trung cấp), lớp Nhất (cao cấp)

Những trường chỉ có 2 hoặc 3 lớp đầu tiên được gọi là trường sơ cấp. Học sinh của các trường này sau khi tốt nghiệp có thể trở về làm nông hoặc chuyển sang học tại những trường có lớp Nhì và lớp Nhất, được gọi là trường tiểu học hoàn chỉnh để chuẩn bị thi chứng chỉ tiểu học.

Các quyết định của người đứng đầu cơ quan hành chính địa phương, ban hành theo đề nghị của giáo đốc giáo dục tiểu học và sau khi tham khảo ý kiến của hội đồng tỉnh hoặc quận, sẽ chỉ định những trường công trong đó bắt buộc phải tổ chức đầy đủ toàn bộ các lớp tiểu học. Đó là những trường ở trung tâm đông dân cư, có thể gọi là trường tiểu học thành thị. Những trường này đào tạo trực tiếp học sinh dự thi chứng chỉ tiểu học, đồng thời tiếp nhận những em có nguyện vọng và khả năng tiếp tục học lên cao.

Học sinh xếp hàng vào lớp tại trường tiểu học Đông Ba những năm 1920. Nguồn: Sách “L’Annam scolaire: De l’enseignement traditionnel annamite à l’enseignement moderne franco – indigène” xuất bản năm 1931

Về nguyên tắc, mỗi xã phải có ít nhất một trường tiểu học cho nam sinh, và ở mỗi tỉnh lỵ phải có ít nhất một trường tiểu học hoàn chỉnh. Tổ chức trường tiểu học dành cho nữ sinh về nguyên tắc cũng tuân theo quy định như trường nam sinh. Ở mỗi tỉnh phải có ít nhất một trường tiểu học cho nữ sinh bản xứ với chương trình đầy đủ của bậc tiểu học.

Tuy nhiên, tại những địa phương tạm thời thiếu thốn về điều kiện vật chất, không thể xây dựng riêng trường nam và trường nữ thì có thể tổ chức trường học chung, hoặc dùng chung một tòa nhà cho cả hai, hoặc các giáo viên dạy cho cả hai nhóm ở những phòng khác nhau. Dù trong trường hợp nào, theo nguyên tắc, lớp học của nam và nữ vẫn phải tách riêng; tuy nhiên, ở lớp đầu tiên của bậc tiểu học (lớp Đồng ấu) thì được phép cho nam và nữ học chung.

b. Tuyển dụng giáo viên – Thành lập các trường sư phạm đào tạo thầy giáo và cô giáo – Giáo dục nữ sinh

Để cung cấp đội ngũ giáo viên bản xứ đủ trình độ cho ngành giáo dục tiểu học, người ta thành lập các trường sư phạm đào tạo thầy giáo và các trường sư phạm đào tạo cô giáo. Toàn quyền nhận thấy rằng không thể phát triển nền giáo dục cho thanh niên mà lại bỏ mặc các thiếu nữ trong tình trạng mù chữ. Trong xã hội An Nam xưa, chỉ có đàn ông mới học chữ nghĩa, triết học và luật pháp – những ngành học hướng đến việc tham gia bộ máy hành chính. Dù vậy, điều đó không tạo sự cách biệt lớn giữa nam và nữ, bởi kiến thức khi ấy còn hạn chế và mục tiêu chính của việc học là để có đạo đức, mà những điều răn về luân lý cơ bản vẫn được dạy cho mọi đứa trẻ. Tuy nhiên, khi giáo dục phương Tây với các môn khoa học hiện đại được đưa vào, điều đó sẽ không còn đúng nữa. Cả hai giới đều phải có cơ hội tiếp cận nền giáo dục ấy nếu không muốn họ mất đi sự thấu hiểu đối phương, nếu không muốn tạo nên tình trạng mất cân bằng có thể dẫn đến những hậu quả xã hội nghiêm trọng. Xuất phát từ quan điểm đó, người ta mở các cơ sở giáo dục dành cho nữ sinh.

Giáo dục bổ túc hay bậc hai không có điểm đáng lưu ý đặc biệt nào.

2. Giáo dục trung học địa phương

Như đã thấy, nền giáo dục trung học kiểu Pháp tổ chức từ năm 1914, và có một chứng chỉ năng lực công nhận bậc học này tương đương bằng tú tài, có thể được đổi lấy bằng trung học chính quy ở chính quốc sau khi được xét duyệt lại.

Trước nguyện vọng mạnh mẽ của nhiều người bản xứ muốn theo học bậc trung học, ông Sarraut cho rằng điều cần thiết đối với các “thần dân bảo hộ” của Pháp là một nền giáo dục trung học địa phương, trong đó việc học văn chương và các thiết chế của xã hội Viễn Đông giữ vai trò xứng đáng. Do đó, ông thành lập hệ thống giáo dục trung học địa phương, gồm hai năm học, dành cho học sinh hoàn thành thành công chương trình Tiểu học bậc hai hoặc bổ túc.

3. Giáo dục cao đẳng – Trường Đại học Đông Dương

Dưới thời toàn quyền Albert Sarraut, chính quyền dự định trong tương lai gần sẽ cải tổ trường Y Dược Đông Dương thành một cơ sở giáo dục đại học tương tự các trường ở chính quốc Pháp. Một nghị định ngày 7/1/1919 đã đưa ra việc thiết lập chứng chỉ năng lực về các ngành khoa học vật lý, hóa học và tự nhiên.

Ngoài ra, nhiều trường cao đẳng và đại học chuyên ngành khác cũng được thành lập, toàn bộ hệ thống này dự kiến hợp thành Đại học Đông Dương, bao gồm: trường Thú Y, Trường Luật và Hành chính, trường Sư phạm, trường Nông nghiệp và Lâm nghiệp, trường Công chính, trường Thương mại.

Khi khánh thành Đại học Đông Dương ngày 28/4/1918, ông Albert Sarraut đã phát biểu như sau:

“Sau những người đi trước đã khai phá mảnh đất này, nay nền móng đã được dựng lên, các bức tường cao dần lên, và tòa nhà dạy học mỗi năm lại cao hơn, rộng hơn. Trên ngưỡng cửa ấy, khoa học hiện đại – lúc đầu còn do dự trước hào quang của truyền thống ngàn năm – nay đã bước vững vàng, cử chỉ đã mạnh mẽ, dũng cảm tiến vào ngôi nhà ấy, mang theo ánh sáng rực rỡ của khám phá và chân lý. Chiếc bánh tinh thần mà khoa học sắp phân phát cho con em An Nam sẽ được làm từ lúa mì tinh khiết hơn, và mỗi ngày càng thêm bổ dưỡng. Những bài học dần trở nên rõ ràng hơn, cao xa hơn, sinh động hơn; nền giáo dục phổ thông phát triển theo nhịp tiến bộ liên tục, không thể dừng lại cũng như đang tiến bộ không ngừng. Và nay tòa nhà ấy đã được hoàn thiện bằng những bậc thềm của giáo dục đại học, từ nơi đó ánh mắt sinh viên An Nam có thể phóng xa hơn trên chân trời của tri thức nhân loại.

Vậy đã là tất cả chưa, công trình ấy đã hoàn tất rồi chăng? Chưa đâu. Nước Pháp không bao giờ ban phát một nửa, không đo lường bằng thước ke hà tiện những ân huệ mà mình ban ra. Bàn tay sáng rỡ mà nước Pháp mở ra trên trán những người con An Nam của mình không thể đột ngột khép lại để giữ riêng những tia sáng mà ánh mắt họ đáng được chiêm ngưỡng. Ngôi trường đại học mới ra đời này chưa phải là hình thức cuối cùng của nó, chưa phải là một ngôi nhà hoàn chỉnh mà mới chỉ là chiếc nôi của đại học tương lai. Những bức tường chật hẹp hiện nay tuy đủ che chở cho lớp học sinh đầu tiên và chương trình ban đầu, rồi sẽ nứt toác ra trước sức ép của những nhu cầu mới, như vỏ cây nứt ra khi nhựa sống và chồi non dâng trào. Được đổi mới, làm giàu và tái sinh không ngừng bởi khoa học và tư tưởng Pháp, tâm hồn An Nam sẽ dần dần vươn lên qua các thế hệ, hướng tới đỉnh cao của tri thức nhân loại”.

4. Lưu trữ và thư viện – Viện Khoa học Đông Dương

Nhằm cung cấp công cụ nghiên cứu cho các giáo sư và học sinh, đồng thời đảm bảo việc bảo tồn những dấu tích công cuộc của Pháp tại Đông Dương, ông Albert Sarraut đã thành lập Nha Lưu trữ và Thư viện. Cơ quan này sau đó đã mang lại nhiều lợi ích cho cả người Âu và người bản xứ yêu thích nghiên cứu khoa học.

Vị toàn quyền không chỉ giới hạn ở việc xây dựng các cơ sở để giảng dạy các tri thức đã có sẵn mà còn nhận thức rằng nghiên cứu khoa học vẫn còn được khai phá chưa nhiều. Vì vậy, ông quan tâm đến việc nghiên cứu những vấn đề không chỉ có giá trị về mặt tri thức mà còn gắn liền với đời sống vật chất của cư dân bản xứ, với mục tiêu nâng cao đời sống của họ. Để thực hiện điều này, ông thành lập một cơ sở khoa học mang tên “Viện Khoa học Đông Dương” với nhiệm vụ nghiên cứu, phát triển và ứng dụng các sản vật từ đất và nước của xứ Đông Dương.

Viện Khoa học Đông Dương tại Sài Gòn những năm 1920. Nguồn: Lưu trữ của Cao ủy Pháp tại Đông Dương

Mục tiêu của Viện Khoa học Đông Dương

  • Tiến hành và tập hợp các nghiên cứu thống kê về tài nguyên thiên nhiên của Đông Dương và chuẩn bị cho việc khai thác hợp lí thông qua các công trình nghiên cứu, thí nghiệm trong phòng thí nghiệm và các chuyến khảo sát khoa học.
  • Tập hợp các bộ sưu tập về hệ động thực vật của Đông Dương để thành lập một bảo tàng lịch sử tự nhiên ở Sài Gòn.
  • Theo dõi các tiến bộ trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp ở nước ngoài bằng cách duy trì mối liên hệ với các cơ sở khoa học tương tự ở chính quốc và các nước khác.
  • Công bố các kết quả nghiên cứu của viện thông qua ấn phẩm khoa học hoặc các buổi diễn thuyết, đồng thời phổ biến rộng rãi bằng những tập tài liệu phổ thông nhằm truyền bá các cải tiến hoặc loại cây mới có giá trị.
  • Tổ chức các khóa đào tạo về lâm nghiệp cho các học viên lâm nghiệp người Âu.
  • Thực hiện trao đổi trực tiếp các loài cây, động vật, bộ sưu tập, ấn phẩm với các cơ sở khoa học ở Pháp và nước ngoài nhằm làm phong phú thêm các trạm thí nghiệm, bảo tàng và thư viện trực thuộc Viện.
  • Phân phát miễn phí cho người dân các hạt giống, cây trồng hoặc cành chiết một số loài và giống cây mà ban giám đốc Viện cho rằng nên được phổ biến tại Đông Dương.

Toàn quyền Merlin (1923 – 1925)

1. Giáo dục đại học

a. Bãi bỏ trường Luật và Pháp chính – Thành lập một trường cao học ở Đông Dương.

Ông Merlin cho rằng trường Cao đẳng Luật và Pháp chính không còn phù hợp với những nguyện vọng mới của các “thần dân bảo hộ”, và không đáp ứng được nhu cầu tuyển chọn đội ngũ nhân sự bản xứ có trình độ mà chính quyền cần đến. Vì vậy, ông bãi bỏ trường này và thay thế bằng một cơ sở mới gọi là “trường Cao học Đông Dương” (Ecole des Hautes Etudes Indochinoises), không chỉ giới hạn trong việc giảng dạy ngành luật.

Trường Cao học Đông Dương có nhiệm vụ đào tạo bậc đại học về các ngành luật, hành chính, lịch sử và văn hóa tổng quát. Các sinh viên tốt nghiệp từ trường Cao học Đông Dương sẽ là nguồn tuyển chọn cho đội ngũ ủy viên hành chính và thẩm phán hòa giải tại Nam Kỳ, cũng như quan lại hành chính và tư pháp ở Trung Kỳ, Bắc Kỳ, Campuchia và Lào.

Những người có thể nộp đơn vào trường Cao học Đông Dương là học sinh Đông Dương có bằng tú tài trung học Pháp hoặc bằng trung học Đông Dương. Chương trình học kéo dài ba năm, và sau năm học thứ ba, sinh viên phải thi tốt nghiệp. Những thí sinh đỗ kỳ thi này sẽ được cấp “Bằng Cao học Đông Dương”, trên đó ghi rõ xếp hạng của mỗi người trong khóa học.

Kể từ năm 1927, các chức vụ khởi điểm trong hệ thống hành chính và tư pháp bản xứ ở Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Campuchia và Lào sẽ ưu tiên được giao cho các sinh viên tốt nghiệp trường Cao học Đông Dương, theo thứ tự xếp hạng và xuất thân của họ ở từng xứ. Các chức vụ ủy viên hành chính và thẩm phán hòa giải ở Nam Kỳ cũng áp dụng quy tắc như vậy. Chỉ trong trường hợp không có ứng viên đủ tiêu chuẩn từ nhóm này, việc tuyển dụng mới được tiến hành theo quy định cũ vẫn còn hiệu lực.

Tuy nhiên, trước khi được bổ nhiệm chính thức vào một vị trí hành chính hay tư pháp, những người trúng tuyển phải trải qua ít nhất 5 năm thực tập trong một văn phòng hành chính hoặc một cơ quan tư pháp, với tư cách là tập sự để rèn luyện thêm kỹ năng nghề nghiệp.

Những sinh viên tốt nghiệp nhưng do thứ hạng không đủ để bổ nhiệm vào các ngạch nói trên vẫn có thể xin vào làm trong các ngạch cao hơn của đội ngũ nhân viên bản xứ trong các cơ quan hành chính dân sự của Đông Dương, với cùng điều kiện như các cựu sinh viên của trường Luật và Hành chính mà nay trường Cao học Đông Dương chính là cơ sở thay thế.

b. Thành lập trường Mỹ thuật

Trong khuôn khổ đại học, một trường khác sẽ được thành lập, đó là trường Mỹ thuật. Quy chế chung của nền giáo dục chuyên nghiệp ở Đông Dương đã lập nên một số trường dạy nghệ thuật trang trí, nhưng những cơ sở đó chỉ nhằm đào tạo thợ lành nghề và thợ thủ công. Chúng không được tổ chức để truyền cảm hứng hay bồi dưỡng các nghệ sĩ, mà mỗi xứ ở Đông Dương nhờ truyền thống nghệ thuật lâu đời, vốn như được định sẵn để sản sinh ra những nghệ sĩ tài năng.

Campuchia thừa hưởng những vinh quang kiến trúc của người Khmer, có một lịch sử chỉ ra tiềm năng rõ ràng cho tương lai nghệ thuật của mình. An Nam, dù chịu ảnh hưởng của Trung Hoa trong các hình thức nghệ thuật, nhưng từ thế kỉ XI đã bắt đầu thể hiện phong cách riêng trong nghệ thuật đúc đồng. Vào các thế kỷ XV, XVIII và XIX, người An Nam đã sáng tạo những công trình kiến trúc và trang trí độc đáo, chỉ phảng phất mờ nhạt nét nào đó của nghệ thuật Trung Hoa, tương tự như cách nghệ thuật Nhật Bản hay Triều Tiên chỉ còn lưu giữ ít nhiều dấu vết của nghệ thuật Trung Hoa cổ.

Một lớp học ngành kiến trúc tại trường Mỹ thuật Đông Dương khoảng năm 1920 – 1930. Nguồn: Lưu trữ của Cao ủy Pháp tại Đông Dương

Tuy nhiên, từ cuối thế kỷ XIX, người ta đã nhận thấy sự suy thoái rõ rệt trong nghệ thuật Đông Dương. Trong khi đó, ở Pháp và khắp châu Âu, nghệ thuật Viễn Đông lại ngày càng được ưa chuộng. Vì thế, ông Merlin cho rằng đây là thời điểm thích hợp để phát hiện và đào tạo những tài năng nghệ thuật xuất sắc từ tầng lớp thợ thủ công bản xứ, giúp họ sáng tạo ra các tác phẩm phù hợp với tinh thần và thiên bẩm dân tộc của họ.

Ông cho rằng nước Pháp cần giúp người An Nam hiểu tầm quan trọng của việc bảo tồn nghệ thuật truyền thống, đồng thời thích ứng với những nhu cầu hiện đại; cần theo dõi, hướng dẫn nỗ lực của họ, dạy họ những quy luật thẩm mỹ phổ quát mà ở mọi nơi đều giống nhau, để Pháp có thể tiếp tục vai trò là “người thầy vĩ đại” của các dân tộc mà mình cai quản và dẫn dắt trên con đường khai hóa.

Trường Mỹ thuật sẽ có nhiệm vụ đào tạo bậc cao về nghệ thuật tạo hình, nhằm cung cấp cho Đông Dương những bậc thầy bản xứ có khả năng góp phần vào việc phát triển nghệ thuật của toàn xứ, đồng thời ảnh hưởng tích cực đến thị hiếu và sản phẩm nghệ thuật của đồng bào họ. Các giáo viên dạy vẽ cho các trường trung học bổ túc và các trường nghệ thuật trang trí sẽ được tuyển chọn từ các sinh viên tốt nghiệp của trường. Chương trình giảng dạy sẽ phù hợp với nghệ thuật Viễn Đông, bao gồm: Vẽ, hội họa, điêu khắc; Trang trí, Mỹ học và lịch sử nghệ thuật; Khảo cổ học, nghệ thuật kiến trúc Viễn Đông; Giải phẫu; Phối cảnh. Phần hội họa bao gồm: Tranh trang trí; Vẽ trên vải, ren, sơn mài; Thiết kế nội thất; Trang trí phẳng trên gốm; Khắc gỗ và khắc kim loại. Khóa học cao cấp về trang trí giúp sinh viên học bố cục và cách thể hiện tác phẩm theo hướng hiện thực hóa ý tưởng. Ngoài ra, trường còn có một khóa dạy về nghệ thuật kiến trúc Viễn Đông và bố cục trang trí kiến trúc.

c. Tổ chức lại một số trường đại học

Các trường Cao đẳng Thú y, Công chính và Sư phạm được tổ chức lại. Bên cạnh đó, người ta thành lập một khoa mới về Bưu điện và Viễn thông tại trường Cao đẳng Thương mại.

2. Giáo dục trung học bản xứ

Điều kiện và chương trình thi:

Một nghị định ngày 16/1/1925 quy định các điều kiện và chương trình của kỳ thi “Tú tài của nền giáo dục trung học bản xứ. Không ai được phép dự thi tú tài nếu không xuất trình được sổ học bạ chứng minh rằng mình đã theo học hai năm chương trình trung học Pháp – bản xứ.

3. Giáo dục tiểu học

a. Bộ trưởng giáo dục địa phương

Trên tinh thần phân quyền và phối hợp tốt hơn các nỗ lực giáo dục, người đứng đầu thuộc địa đã lập một bộ trưởng giáo dục địa phương cho mỗi xứ trong Liên bang Đông Dương.

Theo Học chính Tổng quy ban hành năm 1917, ở mỗi xứ sẽ có:

  • Một Ban chỉ đạo bậc Tiểu học, phụ trách mọi công việc thuộc về giáo dục tiểu học cấp một, tức các trường Tiểu học Pháp và Pháp – bản xứ, đặt dưới quyền Thống đốc hoặc Khâm sứ về mặt hành chính, và Giám đốc Nha Học chính về mặt chuyên môn.
  • Một Văn phòng Giáo dục, phụ trách về mặt hành chính mọi vấn đề thuộc giáo dục tiểu học bậc hai, tức giáo dục tiểu học nâng cao, cả Pháp lẫn Pháp – bản xứ.

Theo một nghị định ngày 15/4/1924, Toàn quyền Đông Dương quyết định rằng các Nha Học chính ở mỗi xứ sẽ đặt dưới quyền của một Bộ trưởng giáo dục địa phương, do Thống đốc hoặc Khâm sứ chỉ đạo.

Bộ trưởng giáo dục địa phương nắm toàn quyền trước đây của Văn phòng Giáo dục và Ban chỉ đạo bậc Tiểu học. Ông quản lý toàn bộ nhân sự của nền giáo dục công, trừ nhân viên làm việc trong các cơ sở do ngân sách chung của Liên bang chi trả. Khi cần thiết, một Tổng thanh tra giáo dục Tiểu học sẽ hỗ trợ ông.

Phù hợp với tinh thần phân quyền của các nghị định năm 1911, những quy định mới này đã hoàn thiện cơ cấu tổ chức của nền giáo dục công ở Đông Dương. Chúng giúp những người đứng đầu chính quyền địa phương có thể giám sát trực tiếp toàn bộ hệ thống trường học trong xứ mình, giảm bớt tình trạng phân tán và duy trì sự chỉ đạo thống nhất, liên tục cho toàn bộ sự nghiệp giáo dục. Biện pháp này không phải đơn lẻ, mà đi kèm một loạt cải cách khác được tiến hành đồng thời trong cả giáo dục tiểu học bậc một và bậc hai.

b. Giáo dục bổ túc – Thành lập các trường trung học mới

Trường Vinh và trường nữ sinh Đồng Khánh ở Huế được chuyển đổi thành các trường trung học bổ túc.

Quang cảnh sân trường ở trường nữ sinh Vinh những năm 1920. Nguồn: Sách “L’Annam scolaire: De l’enseignement traditionnel annamite à l’enseignement moderne franco – indigène” xuất bản năm 1931

c. Giáo dục tiểu học bậc một

– Sự phát triển – Ngôn ngữ bản địa, ngôn ngữ giảng dạy trong các trường tiểu học

Sau những cải tổ trên, Toàn quyền Đông Dương nhận định rằng các cơ sở giáo dục bậc cao đã đáp ứng nhu cầu hiện có, và tình hình ở bậc trung học cũng như bậc bổ túc cũng tương tự. Tuy nhiên, dù đã có nhiều tiến bộ, nền giáo dục tiểu học công lập vẫn còn xa mới có thể đem lại cho đại bộ phận cư dân bản xứ những tri thức sơ đẳng cần thiết cho sự phát triển trí tuệ và đạo đức căn bản.

Tình hình đó khiến chính quyền cho rằng vào thời điểm này, cần chú trọng phát triển mở rộng quy mô giáo dục hơn là nâng cao cấp học. Quan điểm này hoàn toàn phù hợp với chỉ thị của Bộ trưởng trong thông tư ngày 10/10/1920.

Tuy nhiên, để có thể tạo nên luồng gió mới cho nền giáo dục tiểu học, cần chấm dứt những sai lệch trong thực hành sư phạm mà phần lớn, nếu không muốn nói là toàn bộ, giáo viên trường làng đang mắc phải. Để phổ biến việc sử dụng tiếng Pháp trong tất cả các trường tiểu học kể từ lớp ba trở lên, bộ luật Hành chính Tổng quy (ban hành năm 1917 dưới thời ông Albert Sarraut) quy định rằng: “Ngôn ngữ chung của toàn bộ chương trình giảng dạy phải là tiếng Pháp”. Tuy nhiên, do thực tế rằng trong thời gian ngắn chưa thể trang bị đội ngũ giáo viên đủ khả năng giảng dạy bằng tiếng Pháp cho tất cả các trường, và vì việc học tiếng Pháp chuyên sâu không mấy thiết thực với trẻ em nông thôn, nên bộ luật cũng cho phép rằng: “Việc sử dụng tiếng Pháp làm ngôn ngữ duy nhất trong giảng dạy không bắt buộc trong các trường tiểu học, miễn là trong các cơ sở ấy vẫn có dạy môn tiếng Pháp theo thời lượng quy định”.

Bị để mặc trong quy định ấy, và nguyên tắc nói trên vốn được chính tác giả của nó thừa nhận là chưa thể áp dụng ngay trong thực tế, nhiều giáo viên đã lạm dụng tiếng Pháp trong giảng dạy, thậm chí sử dụng tiếng Pháp ngay từ ba lớp đầu của bậc tiểu học. Cách làm này sớm bộc lộ rõ những hệ lụy: Lãng phí thời gian học vì học sinh không hiểu bài; giáo viên gặp khó khăn trong việc giảng dạy và diễn đạt bằng tiếng Pháp; việc học trở nên hình thức, chủ yếu là lặp lại từ vựng vô nghĩa và lạ tai, khiến học sinh không nắm được nội dung thực chất của bài học. Mà trong số học sinh tiểu học, 9 trên 10 em rời trường sau ba năm để phụ giúp gia đình. Do đó, trong thời gian ngắn ép các em phải tiếp thu những kiến thức cơ bản về khoa học, văn học và đạo đức qua một ngôn ngữ xa lạ và khó khăn như tiếng Pháp chẳng khác nào đẩy phần lớn trẻ em vào tình trạng kém cỏi những điều thiết yếu nhất – điều mà các gia đình bản xứ nhiều lần lên tiếng phản đối.

Vì vậy, cần mang tinh thần của bộ luật năm 1917 trở lại. Để không còn sự hiểu lầm nào, ông Merlin đã ban hành Nghị định ngày 18/9/1924, quy định rằng: Trong ba lớp đầu của bậc tiểu học, ngôn ngữ giảng dạy sẽ là tiếng mẹ đẻ; còn tiếng Pháp sẽ trở thành ngôn ngữ duy nhất và bắt buộc ở các lớp trung và cao. Chương trình của các trường làng vẫn giữ nguyên theo quy định năm 1917, nghĩa là vẫn phải dạy tiếng Pháp bắt buộc với số giờ quy định cụ thể. Như vậy, ngôn ngữ thông dụng của dân bản xứ sẽ được dùng trong các trường làng để giảng dạy các môn học trong chương trình, đồng thời phổ biến tư tưởng và khái niệm về nước Pháp trong dân chúng một cách tự nhiên và hiệu quả hơn. Qua đó, chính quyền thực hiện một trong những nguyên tắc chủ đạo của nước Pháp trong chính sách thuộc địa: Tôn trọng ngôn ngữ của các dân tộc được bảo hộ.

– Chứng chỉ Tiểu học sơ cấp

Nhân dịp này, Toàn quyền Đông Dương tận dụng cơ hội để mang lại một niềm thỏa mãn khác cho học sinh ở các vùng nông thôn. Vì chỉ có chương trình tiểu học hoàn thiện (5 năm học) mới được công nhận bằng chứng chỉ chính thức nên không có cách nào phân biệt những học sinh ưu tú khác của các trường làng – nơi việc học chỉ giới hạn trong 3 năm. Tuy vậy, sau này trong số chính những học sinh ấy, người ta chọn lựa kỳ mục, lý trưởng, hoặc hương giáo. Do đó, việc đưa ra một chứng nhận riêng cho những em học sinh đã thể hiện năng lực nổi bật trong ba năm học của mình được xem là một biện pháp vừa hữu ích, vừa công bằng và hợp lí. Hình thức chứng nhận này thực ra đã từng tồn tại trong quá khứ – đó là kỳ thi tam nguyên, đánh dấu mốc kết thúc quá trình học của một nho sinh trong nền giáo dục cổ truyền An Nam.

Ông Merlin quyết định chia bậc tiểu học thành hai chuơng trình: chuơng trình sơ cấp và chuơng trình tiểu học thực thụ. Mỗi chuơng trình được tổ chức hoàn chỉnh riêng biệt và đều kết thúc bằng một kỳ thi. Chương trình sơ cấp được chứng nhận bởi văn bằng “chứng chỉ Tiểu học sơ cấp bản xứ”. Chương trình học và cách thức thi cử để cấp chứng chỉ này do người đứng đầu cơ quan hành chính địa phương của mỗi xứ quy định.

Hướng đi mới này trong ba lớp đầu của bậc tiểu học hoàn toàn phù hợp với nguyện vọng của phần lớn các viên chức hành chính, các quan tỉnh và phụ huynh học sinh. Từ nay, trẻ em bản xứ bắt đầu học bằng tiếng mẹ đẻ, và chúng sẽ được học các khái niệm cơ bản, nhất là về đạo đức, môn học được xem là cốt lại và đặc biệt quan trọng ở xứ này. Kì thi Chứng chỉ Tiểu học sơ cấp – kết thúc ba năm đầu của bậc tiểu học, chỉ tiến hành bằng tiếng bản xứ, gồm thi viết và thi vấn đáp. Các môn tùy chọn duy nhất là: Một bài thi tiếng Pháp đơn giản, dành cho những em có nguyện vọng tiếp tục học lên tại các trường Tiểu học cấp cao hơn, thay vì trở lại nông thôn lao động. Và tại An Nam, một bài thi dễ về chữ Hán, dành cho thanh niên hoặc người trưởng thành (do không giới hạn độ tuổi), những người có khả năng sẽ đảm nhiệm các chức vụ trong làng xã. Mặc dù nội dung thi nằm trong chương trình bản xứ của bậc sơ cấp nhưng mọi người đều có quyền dự thi, không phân biệt xuất thân. Không loại trừ khả năng rằng học sinh các lớp dự bị, đặc biệt là những em học ba năm ở làng với một thầy giáo được đào tạo dạy bằng tiếng bản ngữ và viết theo lối Quốc ngữ, cũng có thể thi đỗ kỳ thi này.

Trường tiểu học ở Sapa thập niên 1920. Phục chế màu: Trần Trung Dũng  
Giờ ra chơi ở trường Tiểu học Liên Thượng nằm trong một ngôi chùa, Bắc Ninh thập niên 1920. Phục chế màu: Trần Trung Dũng

Biện pháp này được đánh giá là đáp ứng mong mỏi của dân chúng nông thôn, vốn yêu cầu học tập bằng tiếng địa phương, phù hợp với hoàn cảnh bản xứ, có sự công nhận chính thức qua kỳ thi công khai. Để khuyến khích đội ngũ giáo viên bản địa trực tiếp phụ trách việc giảng dạy bậc tiểu học, ông Merlin ban hành nghị định ngày 18/9/1924 quy định quy chế của họ. Theo đó, đội ngũ giáo viên bản xứ sẽ bao gồm: một ngạch giáo viên của bậc cao đẳng Tiểu học Pháp – bản xứ, một ngạch giáo viên và giáo viên phụ tá.

– Sách giáo khoa và tranh minh họa

Quy định này được hoàn thiện bằng cách tại Nha Học chính, người ta bổ nhiệm một ủy ban biên soạn và một ủy ban thẩm định các sách giáo khoa và các bản minh họa dùng cho việc giảng dạy bậc tiểu học bản xứ. Các ủy ban này tổ chức theo cách làm sao để công việc của họ thật sự đáp ứng mục tiêu đề ra. Các sách giáo khoa và bản minh họa sẽ thích hợp với từng xứ trong Liên bang Đông Dương nhờ việc tham khảo ý kiến của các lãnh đạo hành chính địa phương. Trong những sách giáo khoa này là toàn bộ kiến thức thiết yếu cho đời sống hiện đại, được biên soạn bằng ngôn ngữ bản xứ.

– Kế hoạch 5 năm

Khi những nền tảng của nền giáo dục đã được xác lập như vậy, Toàn quyền Đông Dương theo gương ông Sarraut, quan tâm đến việc thiết lập một chương trình phát triển 5 năm cho các cơ sở học đường, vì ông cho rằng một hành động được hoạch định thường xuyên và có tầm nhìn xa mới có thể bảo đảm hiệu quả. Trong các chỉ thị gửi tới lãnh đạo hành chính địa phương, ông xem xét tất cả các khía cạnh của vấn đề: nguồn kinh phí, cơ sở vật chất, cung ứng cho giáo viên, vệ sinh cho học sinh.

Về các trường công ở nông thôn, ông viết: “Trường học phải mở rộng tới mọi nơi có thể thành lập thành công và có thể bổ nhiệm một giáo viên có năng lực. Ở những nơi trường công lập chưa vươn tới, thì các trường tư hoạt động trong khuôn khổ pháp luật Nhà nước và theo các điều kiện kiểm soát quy định trong nghị định ngày 14/5/1924, được kêu gọi để mang đến sự hỗ trợ không nhỏ cho công cuộc mà chúng ta đang theo đuổi. Trong trường hợp thiếu giáo viên và kinh phí, chính quyền có thể cung cấp cho họ, cùng với các lời khuyên của thanh tra, những sách giáo khoa và tạp chí sư phạm, có thể giúp các cơ sở tư cũng như cơ sở công đạt được sự thống nhất nhất định về tư tưởng và phương pháp. Trong giờ học, trẻ em phải ngồi trên ghế băng, trước mặt có bàn ở độ cao thích hợp để có thể đọc và viết trong điều kiện sạch sẽ, thuận lợi nhất. Tuyệt đối cấm dạy học cho những trẻ ngồi xổm trên đất hoặc sàn nhà”.

Một lớp học trong trường tiểu học Pháp – bản xứ phố Doudart de Lagrée (nay là phố Hàm Long) Hà Nội những năm 1920. Nguồn: Lưu trữ của Cao ủy Pháp tại Đông Dương

Lệnh cấm này là điều cần thiết, vì mong muốn được học của người Đông Dương, đặc biệt là người An Nam, mãnh liệt đến mức họ sẵn sàng tiếp thu việc học trong bất kỳ điều kiện nào.

4. Quy chế về giáo dục tư thục

Vì sáng kiến tư nhân đã góp phần cùng chính quyền phổ biến giáo dục, nên chính phủ không cản trở hoạt động của họ. Tuy nhiên, cũng không thể để họ hoạt động tự do bất quy tắc. Nghị định ngày 14/5/1924 ban hành nhằm lấp đầy khoảng trống này.

Việc quy định càng trở nên thiết thực khi nền giáo dục công lập ở Đông Dương đã phát triển đáng kể trong khoảng 10 năm qua, đặc biệt là từ năm 1918, kéo theo sự phát triển song song của các trường tư. Những trường này học theo chương trình chính thức và chuẩn bị cho các kỳ thi do chính quyền thuộc địa tổ chức, song song với các trường công. Vì vậy, cần phải thiết lập một chế độ kiểm soát hợp pháp đối với nền giáo dục trong các trường tư, xét trên hai khía cạnh: năng lực của người hành nghề giảng dạy và điều kiện vệ sinh trong các trường học sinh theo học. Ngoài ra, nhờ vào hệ thống cấp phép trước, cần cho phép chính quyền ngăn việc mở ra những cơ sở nghi ngờ phục vụ cho các phong trào chống đối xã hội hoặc chống ảnh hưởng của Pháp. Đó chính là mục đích của nghị định ngày 14/5/1924.

Văn bản này chỉ nhằm xác định những biện pháp trật tự nội bộ, mà tình hình đặc thù của thuộc địa châu Á rộng lớn của chúng ta, nhờ vào vị trí địa lý của nó, rất dễ trở thành mảnh đất thuận lợi cho những hình thức tuyên truyền đa dạng nhất. Nghị định yêu cầu người đứng đầu thuộc địa và các lãnh đạo hành chính địa phương đảm nhiệm việc quy định chi tiết thi hành, phù hợp với nguyên tắc phân quyền hành chính, vốn là nền tảng của cơ cấu hành chính Đông Dương kể từ các nghị định ngày 20/10/1920.

Nghị định 14/5/1924 quy định sẽ thành lập:

a. Trong Hội đồng tư vấn Giáo dục công, một Ban kỷ luật thường trực, do Giám đốc Nha Học chính chủ trì và bắt buộc bao gồm hai thành viên của ngành giáo dục tư thục;

b. Một Hội đồng giáo dục địa phương tại mỗi xứ thuộc Liên bang Đông Dương

Khi được triệu tập để xét xử các vấn đề kỷ luật liên quan đến các thành viên của ngành giáo dục tư thục, Hội đồng này bắt buộc phải gồm hai thành viên của nền giáo dục tư, một người Pháp và một người bản xứ, do Khâm sứ hoặc Toàn quyền chỉ định.■

Blog tư liệu Tags:chế độ thực dân, Đông Dương, Pháp, thuộc địa, văn hóa

Post navigation

Previous Post: Mặt trận phản chiến bên trong nước Mỹ
Next Post: Đông Dương quanh co (Kỳ 2: Từ Sài Gòn tới Đà Lạt)

More Related Articles

Miền đất vàng Đông Dương: Tập sách tranh khắc gỗ của họa sĩ Emmanuel Defert Blog tư liệu
Giới thiệu sách: Wartime writings 1943 – 1949 Blog tư liệu
Ý nghĩa và cổ tục ngày Tết Nguyên đán Việt Nam Blog tư liệu
Sự du lịch đất Hải Ninh Blog tư liệu
Bác sĩ Pháp làm điệp viên cho Liên Xô tại Sài Gòn Blog tư liệu
Những thiên hình vạn trạng của nạn hối lộ thời Pháp thuộc Blog tư liệu

Leave a Reply Cancel reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

  • Tạp chí Phương Đông Official Channel
  • Thư viện Nguyễn Văn Hưởng Fanpage
Tạp chí Phương Đông số tháng 10-2024

Chuyên đề

  • Việt Nam trên báo Mỹ
  • Tạp chí Phương Đông

Kết nối với chúng tôi

Nguồn tài liệu

  • The Vietnam Center and Sam Johnson Vietnam Archive
  • MSU Vietnam Group Archive
  • The Wilson Center Digital Archive
  • The National Security Archive
  • CIA Historical Collections
  • Office of the Historian – U.S. Department of State
  • National Archives
  • Internet Archive
  • United Nations Archives
  • Journal of Vietnamese Studies
  • Harvard-Yenching Library
  • Yale University Digital Collections: Maurice Durand Han Nom
  • Digital Libraries – Gallica – BnF
  • Les Archives nationales d’outre-mer
  • Bulletin de l’École française d’Extrême-Orient
  • Sách Đông Dương – Thư viện QGVN
  • Thư tịch Hán Nôm – Thư viện QGVN
  • Báo chí số hóa – Thư viện QGVN

Bài mới

  • Đông Dương quanh co (Kỳ 2: Từ Sài Gòn tới Đà Lạt)
  • Giáo dục dưới thời Toàn quyền Albert Sarraut và Martial Merlin
  • Mặt trận phản chiến bên trong nước Mỹ
  • Cuộc chiến “châu chấu đá voi” ở Việt Nam
  • Hoạt động tình báo ở các đô thị Việt Nam bị địch tạm chiếm giai đoạn 1945 – 1954

Lưu trữ

TRƯNG BÀY KỶ VẬT CHIẾN SĨ

Tags

1945 1954 1975 Bảo Đại Báo chí Campuchia Chiến tranh Việt Nam Chiến tranh Đông Dương chế độ thực dân chủ nghĩa thực dân Chủ tịch Hồ Chí Minh CIA Cách mạng Tháng Tám giới thiệu sách Hoa Kỳ Huế Hồ Chí Minh Hà Nội Mỹ nghệ thuật ngoại giao Ngô Đình Diệm Ngô Đình Nhu phong trào phản chiến phong tục phản chiến Pháp POW/MIA Quan hệ Việt - Mỹ Sài Gòn thuộc địa Thập niên 1960 Thực dân Pháp triều Nguyễn Tết tình báo Vietnam War Việt Minh Việt Nam Cộng hòa Việt Nam thời hậu chiến Việt Nam trên báo Mỹ văn hóa Đảo chính Đông Dương Đông Nam Á

Đăng ký

  • ĐĂNG KÝ LÀM THẺ
  • ĐĂNG KÝ TẢI TÀI LIỆU SỐ
  • Giải phóng Xuất bản
  • Thắng địa Thăng Long – Địa linh đất Việt Xuất bản
  • Chuyến thăm Hà Nội Xuất bản
  • Pol Pot: Mổ xẻ một cơn ác mộng Xuất bản
  • Một góc nhìn thời cuộc Xuất bản
  • Nước Nga trong thế giới đa cực Xuất bản
  • Thế giới đang thay đổi – Trật tự đa cực xuất hiện Xuất bản
  • Con đường thiên lý: Hành trình kỳ lạ của các sứ bộ Anh Quốc tới Việt Nam thế kỷ 17 – 19 Xuất bản
  • Miền đất vàng Đông Dương Xuất bản
  • Những biên bản cuối cùng tại Nhà Trắng: Phút sụp đổ của Việt Nam Cộng Hòa Xuất bản
  • Nước mắt mùa thu Xuất bản
  • Đối thoại với các phái đoàn Hoa Kỳ Xuất bản
  • Tầm nhìn từ Lịch sử Xuất bản
  • Biển Đông – Nhìn từ góc độ lịch sử và pháp lý Xuất bản
  • Cuộc chiến của tôi với CIA: Hồi ký của Hoàng thân Norodom Sihanouk Xuất bản

Copyright © 2025 Thư viện Nguyễn Văn Hưởng.