Skip to content
  • ĐĂNG KÝ LÀM THẺ
  • ĐĂNG KÝ TẢI TÀI LIỆU SỐ
Thư viện Nguyễn Văn Hưởng

Thư viện Nguyễn Văn Hưởng

CỔNG THÔNG TIN – NVH LIBRARY'S PORTAL

  • Trang chủ
  • Giới thiệu
    • Giới thiệu thư viện
    • Đội ngũ nhân sự
    • Liên hệ
    • Báo chí
    • Tuyển dụng
  • Dịch vụ thư viện
    • Câu hỏi thường gặp
    • Bảng giá dịch vụ
    • Đăng ký làm thẻ
    • Đăng ký tài khoản Thư viện số
  • Tài nguyên
    • Blog tư liệu
    • Xuất bản
    • Tin tức
  • Danh mục sách
  • Thư viện số
  • Trưng bày trực tuyến
  • Toggle search form
  • Chiến thuật phục kích, tấn công của du kích Nam Bộ qua phân tích của Cố vấn quân sự Mỹ tại Sài Gòn Blog tư liệu
  • Báo chí Mỹ trong Chiến tranh Việt Nam: Kiểm duyệt hay không kiểm duyệt? Blog tư liệu
  • Bà Trần Lệ Xuân và vấn đề nữ quyền ở miền Nam Việt Nam Blog tư liệu
  • Ghi chú mật và báo cáo giám sát của Pháp về Nguyễn Ái Quốc năm 1920 Blog tư liệu
  • Con đường dẫn tới cuộc đảo chính năm 1963 ở miền Nam Việt Nam Blog tư liệu
  • Những thiên hình vạn trạng của nạn hối lộ thời Pháp thuộc Blog tư liệu
  • Một tình huống quân sự đặc biệt éo le: Khi lính Mỹ phản chiến Blog tư liệu
  • Tết Nguyên đán của người Bắc Kỳ vào thế kỷ XVII qua ghi chép của linh mục Ý Blog tư liệu
  • “Trại May Mắn” thẳng tiến Blog tư liệu
  • Hồ Chủ tịch nói về nội trị, ngoại giao nước nhà trong những ngày đầu độc lập Blog tư liệu
  • Nhà báo Mỹ điều trần trước Thượng viện về chuyến thăm miền Bắc Việt Nam cuối năm 1966 Blog tư liệu
  • Sự du lịch đất Hải Ninh Blog tư liệu
  • Người tị nạn: Sự tiếp đón lạnh lùng và thận trọng Blog tư liệu
  • Điện Biên Phủ: Góc nhìn của một nhà báo Mỹ Blog tư liệu
  • Nha Trang khởi nghĩa Blog tư liệu

Chẳng có chuông nào rung cho hòa bình

Posted on 18/07/2024 By editor No Comments on Chẳng có chuông nào rung cho hòa bình

John Olson và Bill Ray

Phan Xích Linh dịch

Cuối năm 1972, khi cả nước Mỹ đang hướng về một thỏa thuận hòa bình với Việt Nam, phóng viên Tạp chí Life đã tới thăm Massilon, một thị trấn nhỏ thuộc bang Ohio, để tìm hiểu suy nghĩ, tâm trạng của người dân nơi đây, đặc biệt là những gia đình có con em đi lính ở Việt Nam. Phóng sự ảnh của John Olson và Bill Ray đăng trên Life số ra ngày 10/11/1972 đã lột tả sự vô nghĩa của chiến tranh và nỗi đau mà nó gây ra cho nhân dân hai nước Việt Nam – Hoa Kỳ. Xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc.

*

Đã sáu năm trôi qua kể từ ngày cuộc chiến tranh Việt Nam gửi giấy báo tử đầu tiên về cho Massillon – và từ lần cuối LIFE tới thăm thị trấn nhỏ thuộc bang Ohio này để đưa tin về suy nghĩ của người dân nơi đây về cuộc chiến đang ngày một thêm đen tối. Trong khoảng thời gian đó, dường như cả một thế hệ mới đã lớn lên, đi làm trong các nhà máy thép, mua nhà và lập gia đình. Nhiều nam thanh niên Massillon đã gia nhập hàng ngũ quân đội, một số đã tới tham chiến ở Việt Nam. Nhưng tuần trước hầu như chẳng có ai – ngay cả ở Tổ chức Cựu binh Chiến tranh ở Nước ngoài (Veterans of Foreign Wars – VFW) hay Liên đoàn Cựu chiến binh Mĩ (American Legion) – biết chính xác đã có bao nhiêu người bỏ mạng ở đó. Con số này là 13 người. Và giờ đây, viễn cảnh hòa bình không được đánh dấu bằng lễ kỉ niệm nào cả, và cái giá thực sự phải trả cho cuộc chiến đang bị quên lãng vì người ta còn miệt mài với những vấn đề của đời sống thường nhật: thất nghiệp, lạm phát, một chiếc xe hơi mới hay đội bóng bầu dục trường trung học. Gia đình những quân nhân tử trận, mất tích hoặc bị bắt làm tù binh chịu đựng nỗi đau của họ; nhưng tại Massillon, cũng như hầu khắp nước Mĩ, họ chịu đựng trong thầm lặng.

Massillon là một thị trấn lao động nhỏ gan góc với 32.000 dân, những người vào năm 1966 đã ngày một lo ngại về sự can dự của Hoa Kì vào Việt Nam và bắt đầu nghi ngờ uy tín của chính phủ. Uy tín vẫn là một câu hỏi còn bỏ ngỏ, dù người ta bớt tập trung vào nó hơn. Ngày nay người dân Massillon chủ yếu bộc lộ một vẻ chán chường được kiềm chế, một cảm giác nhẹ nhõm vì ai đó cuối cùng cũng sắp sửa đặt dấu chấm hết cho cuộc chiến. Cũng có chút hoài nghi và nhạo báng về những gì Hoa Kì đã đạt được. Khi được hỏi về vấn đề tù binh chiến tranh, một cựu chiến binh trẻ cay đắng nói: “Anh nhắc đến cụm từ POW[1] quanh đây, người ta sẽ tưởng anh đang nói về một loại xe hơi mới”.

Năm 1966, lính nghĩa vụ Tim Edwards chào tạm biệt cha mình (ảnh trên). Anh đã tới Việt Nam nhưng còn được trở về không sứt mẻ để rồi kết hôn, làm cha, mua nhà xây tổ ấm (ảnh dưới). Về cuộc chiến: “Nó phải đáng. Ta không thể nào nói cuộc chiến ấy là vô ích khi đã có nhiều người bỏ mạng đến thế.”
Robert Wuertz chôn cất con trai mình năm 1966 (ảnh trên), người con đầu tiên của thị trấn Massillon bỏ mình trong cuộc chiến. Đến hôm nay (ảnh dưới), gia đình Wuertz chưa nguôi thương tiếc và Robert vẫn còn cay đắng. Ông nói rằng “đây là cuộc chiến vô ích nhất trong lịch sử” và còn bị kéo dài bởi “bọn khôn lỏi mà con trai chúng chưa từng bén mảng đến Việt Nam”.

Vài người phải trả giá cho cuộc chiến nhưng hầu hết còn được sống

Mười cựu học sinh tốt nghiệp trung học ở Massillon, tất cả đều là cựu binh ở Việt Nam, đứng bên nhau tại một ngã tư ở trung tâm thị trấn. Không ai bị tàn tật vĩnh viễn ngoại trừ Rusty Grim, 25 tuổi, đứng thứ tư từ trái sang, bị bắn trọng thương trong một cuộc tấn công bằng súng cối. Grim thấy mình may mắn: “Trong bệnh xá tôi nằm có đến hơn một trăm thương binh, mà chỉ ba người chúng tôi còn đủ cả tứ chi”. Bốn người bạn Massillon của họ, trong đó có ba người từng ở chung một dãy nhà, đã mất mạng tại Việt Nam. Ý tưởng ân xá cho những người trốn lính làm cựu ngôi sao bóng bầu dục John Rose, người đứng thứ ba từ bên trái, đặc biệt giận dữ. “Tôi muốn gặp một trong những kẻ đã bỏ chạy sang Canada”, anh vừa nói vừa đấm hai tay vào nhau.
Terry Tuersley, 24 tuổi, đang di chuyển bằng xe lăn trên một lề đường ở Massillon. Bị què chân trong một tai nạn trên chiến trường, anh thấy hạnh phúc là mình còn sống. Khi lên đường sang Việt Nam, Tuersley cho rằng cuộc chiến này cần thiết. Bây giờ anh nói: “Ngay từ đầu chúng ta đã không nên có mặt ở đó.”
Thế hệ học sinh đầu tiên tốt nghiệp trường trung học Massillon mà không bị cuộc chiến đe dọa vẫn thấy lo lắng: “Có lẽ rồi sớm muộn cũng sẽ lại có một cuộc chiến khác nổ ra”, một nam sinh nói. “Khi nào tới lượt thì tới thôi.”
Mộ hai anh em Lawrence và Roy Porter, tử trận tại Việt Nam, nằm trong một nghĩa trang gần Massillon
Tom Girdler, ủng hộ phe diều hâu năm 1966, chào đón hòa bình.
“Tôi mừng là cuối cùng cuộc chiến này cũng sắp qua đi. Một lí do nó kéo dài lê thê đến thế là vì đất nước này đã bị chia rẽ bởi các cuộc biểu tình. Nếu tôi mà là Việt Cộng, nghe mấy bài phát biểu của Spock với Fulbright rồi McGovern, tôi sẽ tiếp tục chiến đấu và hi vọng rằng một người trong số họ sẽ thắng cử. Tôi chưa bao giờ cho rằng chúng ta nên can dự vào Việt Nam, nhưng một khi đã vào rồi, lẽ ra ta phải thắng. Ta đã có thể thắng. Bây giờ ta vẫn có thể thắng, nhưng xét đến những gì nó sẽ gây ra cho đất nước này, tôi không cho rằng chiến thắng ấy đáng giá. Cái năm mà con trai tôi đi lính bên đó là một năm dài với tôi. Chẳng ai thắng được cuộc chiến này, nhưng theo tôi có thể gọi điều mà Nixon làm được là một thỏa thuận trong khuôn khổ danh dự. Nếu ta mà rút quân ra như cách McGovern đề xuất thì hẳn tôi sẽ thấy hổ thẹn lắm. Tôi thuộc kiểu người cựu trào đủ để coi danh dự quốc gia là quan trọng.”
Bill Reynolds: “Tôi thấy cay đắng về cuộc chiến”
“Tỉ lệ binh sĩ da đen chết ở Việt Nam cao một cách bất cân xứng. Tôi hi vọng rằng một phần năng lượng và tiền của đang đổ vào cuộc chiến bây giờ sẽ được dành cho giáo dục, nhà ở và các vấn đề khác mà Hoa Kì đã trì hoãn quá lâu. Tôi thấy cay đắng về cuộc chiến. Người dân Mĩ đã bị lừa gạt quá lâu đến nỗi tôi không chắc họ còn chút niềm tin nào với chính phủ không. Sẽ mất rất nhiều thời gian để đất nước này hàn gắn vết thương chiến tranh Việt Nam. Cuộc chiến này không có người thắng cuộc, nhưng có lẽ kẻ thua cuộc lớn nhất là nhân dân Hoa Kì.”
Vivian McDonald có con trai chết trận ở Việt Nam
“Tôi hi vọng rằng ta có thể thoát khỏi cuộc chiến này với một thỏa thuận ngừng bắn trong danh dự. Tôi ghét phải nghĩ rằng bọn trẻ ấy đã chết vô ích. Con trai tôi từng nghĩ rằng chúng ta có mặt ở đó vì một mục đích chính đáng và đang trên đà đạt được mục tiêu. Chừng nào còn chưa mất chính đứa con của mình, chừng đó anh còn chưa hiểu được mình thực sự nghĩ gì về toàn bộ chuyện này. Thằng bé là tất cả cuộc sống của chúng tôi.”
Thị trưởng Mark Ross: “Ta giành được gì? Bao nhiêu tấc đất?”
“Anh xem các cuộc chiến trước, lập luận nguyên do rất khác. Họ ném bom Trân Châu Cảng, nên ta phải đánh họ. Tôi không thực sự hiểu vì sao chúng ta lại có mặt ở Việt Nam – có lẽ để kiềm chế chủ nghĩa cộng sản. Tôi có năm người anh tham gia Thế chiến II; anh có thể cảm thấy gần gũi với cuộc chiến đó. Nhưng cuộc chiến này thì, trên TV anh thấy mấy đứa trẻ con Việt Nam đó khóc lóc và bỏ chạy, mấy túp lều tranh của chúng bị cháy thành than hết. Khó mà hiểu được ta đang làm gì ở đó. Ta giành được gì? Bao nhiêu tấc đất, bao nhiêu mét? Tôi sẽ rất vui thấy nó sắp sửa kết thúc, nhưng rồi cuộc chiến tiếp theo sẽ nổ ra ở đâu đây?”
Irma Buckland, người có con đi lính hai lần ở Việt Nam
“Hai vợ chồng tôi đã sống và ngủ và ăn với cuộc chiến tranh đó trong suốt thời gian Joe ở Việt Nam. Và chúng tôi hoàn toàn đơn độc. Trong các cuộc chiến khác có sự kề vai sát cánh ở đất nước này; nếu anh có một đứa con ra trận, mọi người đều lo lắng. Còn với cuộc chiến này, ai cũng bận rộn đến độ chẳng còn chút thời gian nào để anh tựa đầu lên vai họ khi đang lo thắt ruột gan.”
“Tôi không phải người có thể nói ai đúng ai sai trong cuộc chiến này”
Đối với Bettie Stanton người Massillon, ý nghĩa của hòa bình tại Việt Nam nằm ở số phận của anh trai chị, chuyên viên Sp5[2] Ronald Stanton, người đã mất tích trong chiến trận. Trong suốt bốn năm kể từ khi trực thăng của anh bị bắn hạ trên vùng phi quân sự hóa, Bettie đã nuôi hi vọng anh còn sống. Ngoài niềm tin ra chị có rất ít lí do để gìn giữ hi vọng này. Mối liên hệ duy nhất của chị với anh trai là một lá thư hàng tháng gửi từ Lầu Năm Góc, thông báo rằng họ không có tin gì mới. Những lá thư chị gửi cho anh mình đã được Bắc Việt trả về còn nguyên niêm phong. Khi hòa bình được tái lập, Bettie Stanton có thể sẽ được biết chắc chắn. “Tôi lạc quan hi vọng rằng anh tôi sẽ trở về”, chị nói, “nhưng tôi cũng sợ mình lạc quan quá mức”. Anh trai chị, năm nay 27 tuổi nếu còn sống, đã bị điều động vào quân ngũ. “Việc anh ấy thực hiện nghĩa vụ của mình không phải chỉ là để cho đúng”, chị nói. “Tôi thật sự không thích cuộc chiến, nhưng tôi không phải người có thể nói ai đúng ai sai trong cuộc chiến này.”

[1] Viết tắt của “Prisoner of War”, tù binh chiến tranh.

[2] Viết tắt của Specialist 5, một cấp bậc trong quân đội Hoa Kì, cao hơn Binh nhất (Private first class) và thấp hơn Hạ sĩ (Corporal)

Blog tư liệu Tags:Chiến tranh Việt Nam, POW/MIA, Việt Nam trên báo Mỹ, Vietnam War

Post navigation

Previous Post: “Câu chuyện Việt Nam” của các nữ phóng viên chiến trường Mỹ
Next Post: Chân dung Việt Nam đằng sau những tiêu đề báo chí

More Related Articles

Những bước bình thường hóa quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ Blog tư liệu
Diễn văn đối ngoại của Tổng thống Ford về Việt Nam và Campuchia Blog tư liệu
27/1/1973: Rồi hòa bình đã đến – Nhìn lại 11 ngày quyết liệt và quyết định Blog tư liệu
Chiến tranh Việt Nam trên các đĩa nhạc Mỹ Blog tư liệu
Câu chuyện người vợ lính Mỹ mất tích ở Việt Nam Blog tư liệu
Báo chí Mỹ trong Chiến tranh Việt Nam: Kiểm duyệt hay không kiểm duyệt? Blog tư liệu

Leave a Reply Cancel reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

  • Tạp chí Phương Đông Official Channel
  • Thư viện Nguyễn Văn Hưởng Fanpage
Tạp chí Phương Đông số tháng 10-2024

Chuyên đề

  • Việt Nam trên báo Mỹ
  • Tạp chí Phương Đông

Kết nối với chúng tôi

Nguồn tài liệu

  • The Vietnam Center and Sam Johnson Vietnam Archive
  • MSU Vietnam Group Archive
  • The Wilson Center Digital Archive
  • The National Security Archive
  • CIA Historical Collections
  • Office of the Historian – U.S. Department of State
  • National Archives
  • Internet Archive
  • United Nations Archives
  • Journal of Vietnamese Studies
  • Harvard-Yenching Library
  • Yale University Digital Collections: Maurice Durand Han Nom
  • Digital Libraries – Gallica – BnF
  • Les Archives nationales d’outre-mer
  • Bulletin de l’École française d’Extrême-Orient
  • Sách Đông Dương – Thư viện QGVN
  • Thư tịch Hán Nôm – Thư viện QGVN
  • Báo chí số hóa – Thư viện QGVN

Bài mới

  • Nguyễn Trung Trực – một “Kinh Kha” chống Pháp của miền Nam
  • Tài liệu giải mật Nixon, Kissinger và những kế hoạch theo chiến lược “Kẻ điên rồ” trong năm 1969
  • Nixon và cuộc diệt chủng Campuchia
  • Phóng viên chiến trường nước ngoài và cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc Việt Nam
  • Tầm nhìn từ Lịch sử

Lưu trữ

TRƯNG BÀY KỶ VẬT CHIẾN SĨ

Tags

1945 1954 1975 Bảo Đại Báo chí Chiến tranh Việt Nam Chiến tranh Đông Dương chế độ thực dân chủ nghĩa thực dân Chủ tịch Hồ Chí Minh CIA Cách mạng Tháng Tám giới thiệu sách Hoa Kỳ Huế Hồ Chí Minh Hà Nội Mỹ nghệ thuật ngoại giao Ngô Đình Diệm Ngô Đình Nhu Nhật phong trào phản chiến phong tục phản chiến Pháp POW/MIA Quan hệ Việt - Mỹ Sài Gòn thuộc địa Thập niên 1960 Thực dân Pháp triều Nguyễn Tết tình báo Vietnam War Việt Minh Việt Nam Cộng hòa Việt Nam thời hậu chiến Việt Nam trên báo Mỹ văn hóa Đảo chính Đông Dương Đông Nam Á

Đăng ký

  • ĐĂNG KÝ LÀM THẺ
  • ĐĂNG KÝ TẢI TÀI LIỆU SỐ
  • Cuộc chiến của tôi với CIA: Hồi ký của Hoàng thân Norodom Sihanouk Xuất bản
  • Một góc nhìn thời cuộc Xuất bản
  • Chuyến thăm Hà Nội Xuất bản
  • Giải phóng Xuất bản
  • Con đường thiên lý: Hành trình kỳ lạ của các sứ bộ Anh Quốc tới Việt Nam thế kỷ 17 – 19 Xuất bản
  • Pol Pot: Mổ xẻ một cơn ác mộng Xuất bản
  • Thắng địa Thăng Long – Địa linh đất Việt Xuất bản
  • Thế giới đang thay đổi – Trật tự đa cực xuất hiện Xuất bản
  • Biển Đông – Nhìn từ góc độ lịch sử và pháp lý Xuất bản
  • Tầm nhìn từ Lịch sử Xuất bản
  • Chợ Lớn 1955: Ký và họa Xuất bản
  • Nước Nga trong thế giới đa cực Xuất bản
  • Những biên bản cuối cùng tại Nhà Trắng: Phút sụp đổ của Việt Nam Cộng Hòa Xuất bản
  • Nước mắt mùa thu Xuất bản
  • Đối thoại với các phái đoàn Hoa Kỳ Xuất bản

Copyright © 2025 Thư viện Nguyễn Văn Hưởng.