Skip to content
  • ĐĂNG KÝ LÀM THẺ
  • ĐĂNG KÝ TẢI TÀI LIỆU SỐ
Thư viện Nguyễn Văn Hưởng

Thư viện Nguyễn Văn Hưởng

CỔNG THÔNG TIN – NVH LIBRARY'S PORTAL

  • Trang chủ
  • Giới thiệu
    • Giới thiệu thư viện
    • Đội ngũ nhân sự
    • Liên hệ
    • Báo chí
    • Tuyển dụng
  • Dịch vụ thư viện
    • Câu hỏi thường gặp
    • Bảng giá dịch vụ
    • Đăng ký làm thẻ
    • Đăng ký tài khoản Thư viện số
  • Tài nguyên
    • Blog tư liệu
    • Xuất bản
    • Tin tức
  • Danh mục sách
  • Thư viện số
  • Trưng bày trực tuyến
  • Toggle search form
  • Xem ‘lát cắt một năm’ của Chợ Lớn từ nhà thám hiểm Pháp Báo chí
  • Giới thiệu sách: Steinbeck in Vietnam Blog tư liệu
  • Tài liệu giải mật: Các cuộc họp bên lề Hội nghị Geneva 1954 Blog tư liệu
  • Tù binh của quá khứ Blog tư liệu
  • Sài Gòn, Việt Nam, tháng Tư – tháng Năm 1975 Blog tư liệu
  • Kỷ niệm Ngày Độc lập Blog tư liệu
  • Sự chuyển đổi ý niệm về hình tượng con trâu trong hội hoạ Việt Nam Blog tư liệu
  • Bác Hồ làm báo Việt Nam độc lập Blog tư liệu
  • “Cuộc chiến đã kết thúc!” Blog tư liệu
  • Nhìn lại khởi nghĩa Bắc Sơn Blog tư liệu
  • Điện Biên Phủ: Góc nhìn của một nhà báo Mỹ Blog tư liệu
  • Nhà báo Mỹ điều trần trước Thượng viện về chuyến thăm miền Bắc Việt Nam cuối năm 1966 Blog tư liệu
  • Tháng 8 năm 1945 qua hồi ký của Cố vấn Masayuki Yokoyama Blog tư liệu
  • Đề cử Giải Bùi Xuân Phái – Vì tình yêu Hà Nội 2024: Một Hà Nội… “cảm tình thân quen kỳ lạ” Báo chí
  • Thái Nguyên trong ngày Tổng khởi nghĩa Blog tư liệu

Bà Trần Lệ Xuân và vấn đề nữ quyền ở miền Nam Việt Nam

Posted on 13/03/202413/03/2024 By editor No Comments on Bà Trần Lệ Xuân và vấn đề nữ quyền ở miền Nam Việt Nam

Milton Orshefsky

Phan Xích Linh dịch

Là mĩ nhân “gây tranh cãi nhất, quyền lực nhất… khó nhằn nhất không chỉ ở Đông Nam Á mà ở tất cả các miền đất nằm phía đông kênh đào Suez”, bà Trần Lệ Xuân đã thu hút được nhiều sự quan tâm của báo chí nước ngoài trong thời gian bà giữ cương vị Đệ nhất phu nhân Việt Nam Cộng hòa dưới chế độ Ngô Đình Diệm. Tạp chí Phương Đông giới thiệu với bạn đọc bản dịch bài “Joan of Arc or Dragon Lady?” của nhà báo Milton Orshefsky, đăng trên tạp chí LIFE số ra ngày 26/10/1962, viết về chủ trương và chính sách xóa bỏ bất bình đẳng giới do bà Trần Lệ Xuân khởi xướng. Mặc dù còn nhiều tranh cãi về bà Trần Lệ Xuân, nhưng có thể nói bà thực sự là một hình tượng nữ quyền và đã có những đóng góp cho việc nâng cao địa vị của phụ nữ ở nước ta. Các câu từ trong bài viết này thể hiện quan điểm của tác giả và nhân vật, chúng tôi giữ nguyên để bạn đọc tham khảo.

*

Một buổi sáng đầu năm nay một cơn mưa bom và pháo rốc két đã dội xuống dinh Tổng thống tại Sài Gòn trong một nỗ lực ám sát từ trên không đặc biệt ngoạn mục. Hai viên phi công bất bình thuộc Không lực Việt Nam Cộng Hòa đã tìm cách giết hại những người đứng đầu đất nước: Tổng thống Ngô Đình Diệm cùng người em cũng là cố vấn chính của ông – Ngô Đình Nhu, và cả một người phụ nữ bé nhỏ, xinh đẹp: em dâu Tổng thống, người đang giữ cương vị Đệ nhất phu nhân trong các nghi lễ nhà nước – điều gây kinh ngạc cho một số người phương Tây nhưng hoàn toàn không làm ai bất ngờ ở Việt Nam. Trong tám năm hiện diện trên sân khấu chính trị Việt Nam, bà Ngô Đình Nhu đã trở thành mĩ nhân gây tranh cãi nhất, quyền lực nhất, không ai ưa, trái thói, kiên quyết, thú vị, khó nhằn nhất không chỉ ở Đông Nam Á mà ở tất cả các miền đất nằm phía đông kênh đào Suez.

Tại Sài Gòn, bà Ngô Đình Nhu, đệ nhất phu nhân Việt Nam, đứng bên tượng đài cao gần 20 mét tưởng niệm chị em Hai Bà Trưng, hai nữ anh hùng dân tộc từ thế kỉ thứ nhất. “Đây là những người phụ nữ nổi tiếng nhất của dân tộc tôi – không chỉ là những bậc nữ lưu kiệt hiệt mà còn là những anh hùng đầu tiên, trước cả nam giới. Ngồi trên lưng voi, mặc giáp ra trận như các nữ tướng thời xưa – điều đó không hấp dẫn tôi chút nào. Tôi chọn cuộc đấu tranh thầm lặng hàng ngày của các vị thánh.”

Bơ phờ và trầy trụa, nhưng vẫn còn gia đình nguyên vẹn, bà Nhu trèo ra khỏi dinh Tổng thống đổ nát và tiếp tục công việc mà bà coi là sứ mệnh của đời mình. Bà có thể bắn súng nều cần, nhưng vũ khí chính của bà là năng lượng không thể dập tắt, tinh thần không nao núng, ngòi bút thẳng thừng, miệng lưỡi sắc như dao – và tất nhiên, cả quyền lực tuyệt đối của gia đình mà bà đã về làm dâu.

Trong một đất nước ngổn ngang du kích Việt Cộng, mục tiêu của bà vô số. Trong đó có: a) những kẻ không chấp nhận để phụ nữ có vị thế ngang hàng với đàn ông; b) những kẻ dung túng cho các thói hư tật xấu như đấm bốc, thi nhan sắc, mại dâm và nhảy đầm; c) bất kì ai dám chỉ trích chồng hay anh rể bà; và d) chủ nghĩa cộng sản. Những người ủng hộ coi bà là một Jeanne d’Arc có gò má cao, những người phê phán thì nói bà là hiện thân của bà chằng với móng tay để dài nhọn sắc như móng cọp.

Bà Nhu bắn một khẩu súng lục ổ xoay cỡ nòng 38 trong chuyến thăm lớp tập huấn sĩ quan cho lực lượng nữ dân quân mà bà tổ chức năm ngoái. “Tôi không thích những món đồ chơi tệ hại này, nhưng nếu cần thiết phải sử dụng chúng để bảo vệ đất nước thì tôi sẵn sàng. Các chị em trong các tổ dân quân này thường bắn giỏi hơn nam giới. Mỗi lần có cuộc tranh tài với nam giới họ đều giành chiến thắng.”

Bà Nhu sinh ra trong một gia đình Phật tử vững vàng, có địa vị tốt. Cha bà, nay là Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Hoa Kì, trước đây là một luật sư giàu có đã bảo đảm cho con gái yêu của ông một cuộc sống không thiếu thứ gì. Tên bà là Lệ Xuân, có nghĩa là mùa xuân diễm lệ. Bà được cho đi học ở châu Âu, chủ yếu là ở Pháp, và đến tận bây giờ vẫn có vẻ thoải mái khi dùng tiếng Pháp hơn là tiếng Việt. Tất cả các bài phát biểu của bà đều được viết bằng tiếng Pháp. Năm 1943, bà gặp và kết hôn với Ngô Đình Nhu, khi đó là Giám đốc Nha Lưu trữ và Thư viện Đông Dương – bà đã cải sang đạo Công giáo để kết hôn với ông. Ông Nhu nay là cánh tay phải quyền lực của anh trai ông, Tổng thống Diệm. 

Việc trở thành nàng dâu trong một gia đình quyền lực như thế đã đặt bà Nhu vào giữa một biển chính trị và mưu đồ ngập đến tận chiếc cổ xinh xắn của bà, nơi bà cứ ngụp lặn không ngừng từ đó. Năm 1946, bà bị Việt Minh bắt giữ vì các hoạt động chống cộng, trong suốt bốn tháng chỉ được ăn ngày hai chén cơm, nhưng sau đó đã trốn thoát. Trở về bên chồng, bà bắt đầu lên kế hoạch cho việc Ngô Đình Diệm từ châu Âu trở về Việt Nam để đứng đầu chính phủ. Tháng Bảy năm 1954 sau khi Hiệp định Genève chia Việt Nam ra làm hai nửa, ông Diệm trở về nắm quyền. Ông chuyển vào sống tại Dinh Độc lập và vợ chồng bà Nhu cũng đến đó sống cùng ông. Vì ông Diệm độc thân nên bà được chỉ định giữ vai trò đệ nhất phu nhân.

Bà Nhu trò chuyện thân mật với thành viên các phái đoàn kí giả nước ngoài tại trụ sở Ủy ban Quốc hội ở Sài Gòn. “Tôi hoàn toàn không ngại ngùng khi được phỏng vấn trước công chúng. Thực ra việc ấy giúp tôi thư giãn. Tôi không thể hiểu được vì sao người ta không thích đối diện với chuyện đó, đặc biệt là nếu như họ chẳng có gì để giấu diếm. Đôi khi điều ấy là cần thiết. Nhưng thường thì ta phải nói chuyện với kẻ điếc – hoặc với những người từ chối lắng nghe.”

Bà Nhu đã nhanh chóng và kiên quyết bắt tay vào thay đổi địa vị pháp lí và xã hội của phụ nữ trên đất nước mình. Là một xã hội mà Phật giáo chiếm đa số (khoảng 80% người dân là Phật tử), Việt Nam có cấu trúc xã hội phụ hệ vững chắc dựa trên các nguyên tắc Nho giáo: lẽ phải thuộc về người chồng, và người vợ có trách nhiệm vâng lời. Trên thực tế, điều này có nghĩa là người chồng hầu như chẳng bao giờ sai, trong khi đó người vợ, dù được gọi là “nội tướng” trong gia đình, có thể bị chồng ruồng bỏ vì vô số lí do như không thể có con, ngoại tình, bất kính với cha mẹ chồng, nói xấu, ăn cắp, ghen tuông hay bệnh tật. Hệ thống tiêu chuẩn kép này, theo cách nói của bà Nhu, làm cho phụ nữ “mãi mãi là thứ yếu, một con búp bê không có linh hồn… một người hầu không được trả công”.

Bà ra tay xóa bỏ sự bất bình đẳng ấy. Là một trong số chín nữ đại biểu Quốc hội (trong tổng số 123 đại biểu), bà đã đề ra một dự luật gọi là “Luật Gia đình”. Luật này cấm đa thê, lấy vợ lẽ, ngoại tình, và cho phép phụ nữ làm bất cứ nghề nào họ muốn mà không cần có sự đồng thuận của chồng. Phụ nữ không thể bị cưỡng ép kết hôn hay yêu cầu sống chung với gia đình chồng nếu như họ không chủ động chọn, và không còn phải công nhận hợp pháp các con ngoài giá thú của chồng. Họ được trao quyền đồng quản lí các tài sản chung của gia đình. Cuối cùng, luật còn cho phép li thân hợp pháp nếu người chồng và người vợ không thể hòa hợp, nhưng cấm li hôn trừ một số trường hợp hiếm hoi phải được sự chấp thuận của Tổng thống. Tóm lại, như bà Nhu đã viết trong phần mở đầu của dự luật này, “Phụ nữ đã trở thành ngang hàng với nam giới.”

Đối với những bộ óc được giáo dục theo Tây phương, dự luật này hoàn toàn hợp lí theo tư tưởng hiện đại. Nhưng trong bối cảnh một xã hội Á châu, dự luật này đã và cho đến bây giờ vẫn đang vấp phải sự chống đối nặng nề, đặc biệt là với quy định hà khắc về việc cấm li hôn. Ngay cả Quốc hội, về cơ bản chỉ hoạt động như chiếc máy đóng dấu phê chuẩn tất cả những điều ông Diệm muốn, cũng đã tranh luận ồn ào về dự luật trước khi ngoan ngoãn thông qua. Bà Nhu nhún vai trước những xôn xao này, chẳng phí chút cảm thông nào cho thứ mà ngay tại thời điểm đó bà đã dán nhãn là “đám đàn ông vô tình… than thở vì không còn người vợ ngoan ngoãn dễ bảo, cúc cung tận tụy quẩn quanh xó bếp nữa.”

Cùng với các quan chức chính phủ, bà đi thăm đống đổ nát ở dinh Tổng thống, nơi gia đình bà đã thoát chết trong gang tấc khi bị các phi công không lực Việt Nam Cộng hòa nổi loạn tìm cách ám sát. “Vụ tấn công này thật đáng hổ thẹn, nhưng nhờ có nó mà tôi khám phá ra được mặt khác của tình người, sự rộng lượng và cống hiến thầm lặng trong cái chết của người y tá đã hi sinh tính mạng để cứu con tôi.”

Sau khi chứng kiến dự luật của mình được thông qua hiệu lực, bà Nhu thực hiện bước tiếp theo. Bà khởi xướng Phong trào Liên đới Phụ nữ Việt Nam, tới nay đã có số thành viên lên tới gần một triệu người. Phong trào này làm nhiều việc tốt – mở các nhà hàng dành cho công nhân, các lớp mẫu giáo và trung tâm an sinh xã hội. Nhưng mục đích chính của nó nằm ở chỗ khác. Bằng cách giữ liên hệ mật thiết với phụ nữ, đặc biệt là tại các khu vực bên ngoài Sài Gòn, phong trào cung cấp thông tin tình báo chính xác cho bà Nhu, cũng tức là cho ông Nhu và ông Diệm.

Mùa thu năm ngoái, bà Nhu đưa ra một nghị quyết mới có nhan đề “Làm xã hội lành mạnh và củng cố các lực lượng quốc gia”. Một phần trong nghị quyết này cấm vũ nữ kiếm sống bằng cách hành nghề ở các quán bar, hộp đêm và đường phố, chủ yếu ở Sài Gòn. “Các cô vũ nữ này rời bỏ gia đình ở nông thôn vì bị cái nghề ngu ngốc ấy hấp dẫn”, bà Nhu giải thích với thái độ thẳng ruột ngựa điển hình của bà. “Giờ ta cần họ quay về đó, nếu cần thì cứ để họ chịu đói cho đến khi họ phải làm những nghề có ích hơn như dạy học hay trông trẻ.” Các cô gái bị ảnh hưởng bởi nghị quyết này chờ đợi một thời gian ngắn, bàn đến chuyện biểu tình phản đối và cuối cùng rút vào hoạt động ngầm. 

Nghị quyết này cũng lập ra một chương trình đào tạo bán quân sự trên phạm vi toàn quốc cho tất cả phụ nữ trong độ tuổi từ 16 đến 40, dạy cho các nữ tình nguyện viên cách sử dụng súng, sơ cấp cứu, giáo dục thể chất và tâm lí chiến. Những người phê phán chương trình này phản đối việc trả lương cho các nữ cán bộ bán quân sự này tới 2.000 quan một tháng, trong khi các chiến sĩ trong quân đội, những người hàng ngày mạo hiểm sinh mạng của mình, chỉ nhận được một nửa số tiền đó. Họ cũng chẳng thấy ích lợi gì trong việc cung cấp súng cạc bin Hoa Kì mới toanh cho các nữ học viên trong khi quá nhiều lính địa phương canh giữ các ấp chiến lược vẫn còn phải dùng súng trường 1917 cổ lỗ hoặc giáo mác bằng tre. Bà Nhu không nao núng: “Những người chỉ trích không biết họ đang nói cái gì. Các thành viên nữ của chương trình này là cán bộ, chứ không phải binh sĩ đơn thuần, và họ được trả lương tương ứng với vị trí đó.” Những người khác đặt câu hỏi liệu rằng lợi ích tâm lí của việc làm cho phụ nữ cảm thấy họ được dự phần vào việc quốc gia đại sự có tương xứng với lượng tiền bạc, thời gian và nhân lực khổng lồ mà chương trình này đòi hỏi hay không.

Tháng Năm năm ngoái, trong một thời điểm đặc biệt đen tối của cuộc chiến, bà Nhu quyết định rằng đã đến lúc phải thắt lưng buộc bụng. Bà bảo lãnh cho một dự luật mới bãi bỏ hàng loạt hoạt động, trong đó có các cuộc thi nhan sắc, đấm bốc, chọi thú, đồng bóng, phù thủy, mại dâm, tránh thai, nạo phá thai. Luật này cũng cấm trẻ em dưới 18 tuổi uống rượu, hút thuốc, và cấm nhảy đầm “ở bất kì đâu”. Người Việt chỉ cằn nhằn, nhưng những người Mĩ – khoảng 7.000 người Mĩ đang có mặt tại Việt Nam cố gắng cứu vãn đất nước này – thì gào lên khi khám phá ra rằng luật cấm nhảy đầm của bà Nhu cũng áp dụng cả với họ. Một thư kí người Mĩ làm việc cho Đại sứ quán Hoa Kì tại Sài Gòn đã bị bắt vì tội khiêu vũ trong căn hộ của chính cô. Cô này nhanh chóng được trả tự do, nhưng giờ thì người Mĩ không còn nhảy nhót ở bất cứ nơi nào tại Việt Nam nữa. “Người ngoại quốc tới đây không phải để khiêu vũ”, bà Nhu bình thản tuyên bố, “mà là để giúp người Việt chiến đấu chống chủ nghĩa cộng sản. Khiêu vũ với tử thần là đủ lắm rồi”.

Trong vườn căn biệt thự của họ ở Đà Lạt, cách Sài Gòn một giờ bay, bà Nhu chơi ném phi tiêu cùng chồng bà, ông Ngô Đình Nhu (đang bế con gái họ, cô bé Lệ Quyên hai tuổi rưỡi), và con trai Ngô Đình Trác. Họ có hai người con khác nữa. “Đối với tôi, cuộc đời đáng sống vì những khoảnh khắc như thế này. Ngoài ra, tất cả đều là nghĩa vụ và những việc cần thiết phải làm. Tôi thích cảm giác riêng tư – nhưng phải có cả nhà quây quần xung quanh tôi. Tôi không thích cảm giác đơn độc khi không có chồng con.”

“Sẽ chẳng ai nói lời nào về tôi, dù khen hay chê, nếu tôi dành thời gian nằm dài trên võng mà mơ mộng, hay đi trượt tuyết ở châu Âu”, bà Nhu từng nói cách đây ít lâu. Chuyện này có lẽ chưa chắc. Như bất kì người phụ nữ nào có đầu óc, quyến rũ và quyền lực, bà Nhu dù làm gì chăng nữa cũng sẽ có kẻ thù. Nhưng vì bà đã và đang hành động thật quyết liệt (và thành công), lại chẳng mảy may đếm xỉa đến sự tế nhị hay cảm xúc của công chúng khi làm những việc mà bà cho là đúng, bà Nhu đã gây cho mình nhiều kẻ thù hơn bất kì ai. Với hầu hết mọi người, bà đã trở thành biểu tượng của tập đoàn gia đình trị thống lĩnh Việt Nam. Người Việt không thích các chính quyền gia đình. Tư tưởng Nho giáo thâm căn cố đế trong họ về ngôi thứ khẳng định rằng nếu ông Diệm, một người đàn ông độc thân, cần chỉ định một đệ nhất phu nhân chính thức, lẽ ra ông phải chọn vợ của Phó Tổng thống hoặc vợ của Chủ tịch Quốc hội. Họ thấy bà Nhu quá non trẻ trong một đất nước đề cao tuổi tác, kính lão đắc thọ. Họ cho rằng bà dùng địa vị cao của mình để áp đặt các giá trị đạo đức Công giáo lên một quốc gia Phật giáo – và căm ghét điều đó.

Danh sách còn dài. Mặc dù nhiều phần những chỉ trích chống lại bà Nhu có tính tư thù hoặc hoàn toàn chỉ dựa trên tin đồn, cũng không thể đơn giản gạt chúng sang một bên. Mọi người, bao gồm cả bà Nhu, đều đồng ý rằng không thể đánh bại Việt Cộng nếu như người dân Việt Nam không đoàn kết mạnh mẽ và tuyệt đối tôn trọng những người lãnh đạo họ. Các điều kiện này hiện không tồn tại. Và bà Nhu không phải một nhân tố góp phần đoàn kết mọi người.

Tuy nhiên bà tin tưởng một cách chắc chắn rằng chỉ có bà và gia đình bà nắm được giải pháp đúng đắn cho các vấn đề của Việt Nam đến nỗi bà không chấp nhận bất kì chỉ trích nào đối với lí tưởng hay phương pháp hành động của mình và gia đình mình. Bất kì ai không cùng quan điểm với gia đình họ Ngô về điều gì cũng là “một lũ chấy rận”, “một ổ rắn độc”, “tay sai cộng sản”, “con ghẻ của xã hội” hay chỉ đơn giản là những kẻ mù quáng.

Bà Nhu cầu nguyện trong thánh lễ Chúa nhật tại nhà thờ ở Đà Lạt. Sinh ra trong gia đình Phật giáo, bà đã cải theo đạo Công giáo khi kết hôn. “Tôi không ngoan đạo như lẽ ra phải thế, nhưng các thánh lễ ở nhà thờ Công giáo là liều thuốc bổ đạo đức đối với tôi. Chúng thực sự giúp cho chuyến du hành của tôi trong cuộc đời này trở nên dễ chịu hơn.”

Để bảo vệ cho các chính sách của gia đình mình, bà Nhu thường chĩa mũi dùi về phía Hoa Kì, ám chỉ rằng trong quá khứ Hoa Kì không hết lòng ủng hộ ông Diệm. Bà từng buộc tội người Mĩ ở Sài Gòn quá tin lời những kẻ chỉ trích ông Diệm. “Người ta vẫn lan truyền các tin đồn do Cộng sản bịa ra”, bà bất bình. “Tại sao đồng minh của chúng tôi lại đi nghe những kẻ chưa bao giờ đưa ra bằng chứng gì thông qua sinh mạng hay hành động? Tại sao đồng minh của chúng tôi lại nghe họ thay vì nghe chúng tôi?”

Giờ đây khi Hoa Kì không bỏ lỡ một cơ hội công khai nào để thể hiện sự ủng hộ mạnh mẽ hoàn toàn dành cho ông Diệm, bà Nhu cảm thấy khá hơn. “Mọi chuyện giữa chúng ta bây giờ đã tốt hơn nhiều. Người Việt chúng tôi có câu “ăn cơm mới đừng nói chuyện cũ”. Ở thời điểm hiện tại bà Nhu tương đối bình lặng. Nhưng chẳng ai cho rằng khối năng lượng bé nhỏ xinh đẹp này sẽ nhu mì như thế được lâu.■

Blog tư liệu Tags:Chiến tranh Việt Nam, Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu, Việt Nam Cộng hòa, Việt Nam trên báo Mỹ

Post navigation

Previous Post: Hà Nội tháng Ba năm 1967
Next Post: Martin Luther King Jr. nói về Chiến tranh Việt Nam

More Related Articles

50 năm sau khi Sài Gòn thất thủ: Hồi tưởng của Nayan Chanda Blog tư liệu
Ngày Johny về trong khúc quân hành – hay chẳng bao giờ về nữa Blog tư liệu
Nỗi buồn ở trại tị nạn Blog tư liệu
Tháng 4 năm 1975 đầy ám ảnh qua hồi ức của nhân viên CIA Blog tư liệu
Với những kẻ đầu cơ, cuộc chiến thật tuyệt vời Blog tư liệu
Diễn văn đối ngoại của Tổng thống Ford về Việt Nam và Campuchia Blog tư liệu

Leave a Reply Cancel reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

  • Tạp chí Phương Đông Official Channel
  • Thư viện Nguyễn Văn Hưởng Fanpage
Tạp chí Phương Đông số tháng 10-2024

Chuyên đề

  • Việt Nam trên báo Mỹ
  • Tạp chí Phương Đông

Kết nối với chúng tôi

Nguồn tài liệu

  • The Vietnam Center and Sam Johnson Vietnam Archive
  • MSU Vietnam Group Archive
  • The Wilson Center Digital Archive
  • The National Security Archive
  • CIA Historical Collections
  • Office of the Historian – U.S. Department of State
  • National Archives
  • Internet Archive
  • United Nations Archives
  • Journal of Vietnamese Studies
  • Harvard-Yenching Library
  • Yale University Digital Collections: Maurice Durand Han Nom
  • Digital Libraries – Gallica – BnF
  • Les Archives nationales d’outre-mer
  • Bulletin de l’École française d’Extrême-Orient
  • Sách Đông Dương – Thư viện QGVN
  • Thư tịch Hán Nôm – Thư viện QGVN
  • Báo chí số hóa – Thư viện QGVN

Bài mới

  • Trang phục người dân An Nam
  • Hội thi bơi trải ở ngã ba Bạch Hạc
  • Ngựa và voi trong tín ngưỡng của người An Nam
  • Nhà báo Anh thuật lại cuộc gặp với Chủ tịch Hồ Chí Minh và Thủ tướng Phạm Văn Đồng năm 1965
  • Kerry – McCain: Một tình bạn khép lại cuộc chiến

Lưu trữ

TRƯNG BÀY KỶ VẬT CHIẾN SĨ

Tags

1945 1954 1975 Bảo Đại Báo chí Chiến tranh Việt Nam Chiến tranh Đông Dương chế độ thực dân chủ nghĩa thực dân Chủ tịch Hồ Chí Minh CIA Cách mạng Tháng Tám giới thiệu sách Hoa Kỳ Huế Hồ Chí Minh Hà Nội Mỹ nghệ thuật ngoại giao Ngô Đình Diệm Ngô Đình Nhu Nhật phong trào phản chiến phong tục phản chiến Pháp POW/MIA Quan hệ Việt - Mỹ Sài Gòn thuộc địa Thập niên 1960 Thực dân Pháp triều Nguyễn Tết tình báo Vietnam War Việt Minh Việt Nam Cộng hòa Việt Nam thời hậu chiến Việt Nam trên báo Mỹ văn hóa Đảo chính Đông Dương Đông Nam Á

Đăng ký

  • ĐĂNG KÝ LÀM THẺ
  • ĐĂNG KÝ TẢI TÀI LIỆU SỐ
  • Con đường thiên lý: Hành trình kỳ lạ của các sứ bộ Anh Quốc tới Việt Nam thế kỷ 17 – 19 Xuất bản
  • Nước Nga trong thế giới đa cực Xuất bản
  • Đối thoại với các phái đoàn Hoa Kỳ Xuất bản
  • Nước mắt mùa thu Xuất bản
  • Chuyến thăm Hà Nội Xuất bản
  • Những biên bản cuối cùng tại Nhà Trắng: Phút sụp đổ của Việt Nam Cộng Hòa Xuất bản
  • Một góc nhìn thời cuộc Xuất bản
  • Giải phóng Xuất bản
  • Chợ Lớn 1955: Ký và họa Xuất bản
  • Cuộc chiến của tôi với CIA: Hồi ký của Hoàng thân Norodom Sihanouk Xuất bản
  • Pol Pot: Mổ xẻ một cơn ác mộng Xuất bản
  • Thắng địa Thăng Long – Địa linh đất Việt Xuất bản
  • Miền đất vàng Đông Dương Xuất bản
  • Biển Đông – Nhìn từ góc độ lịch sử và pháp lý Xuất bản
  • Thế giới đang thay đổi – Trật tự đa cực xuất hiện Xuất bản

Copyright © 2025 Thư viện Nguyễn Văn Hưởng.