Skip to content
  • ĐĂNG KÝ LÀM THẺ
  • ĐĂNG KÝ TẢI TÀI LIỆU SỐ
Thư viện Nguyễn Văn Hưởng

Thư viện Nguyễn Văn Hưởng

CỔNG THÔNG TIN – NVH LIBRARY'S PORTAL

  • Trang chủ
  • Giới thiệu
    • Giới thiệu thư viện
    • Đội ngũ nhân sự
    • Liên hệ
    • Báo chí
    • Tuyển dụng
  • Dịch vụ thư viện
    • Câu hỏi thường gặp
    • Bảng giá dịch vụ
    • Đăng ký làm thẻ
    • Đăng ký tài khoản Thư viện số
  • Tài nguyên
    • Blog tư liệu
    • Xuất bản
    • Tin tức
  • Danh mục sách
  • Thư viện số
  • Trưng bày trực tuyến
  • Toggle search form
  • Đầu xuân thăm cảnh xứ Đông Blog tư liệu
  • Tết Nguyên đán của người Bắc Kỳ vào thế kỷ XVII qua ghi chép của linh mục Ý Blog tư liệu
  • Miền Nam Việt Nam buổi giao thời tháng 4-5/1975 Blog tư liệu
  • Những gương mặt của chiến tranh Blog tư liệu
  • Thêm nhiều tù binh Mỹ lần đầu xuất hiện trên ảnh Blog tư liệu
  • Di sản Hai Bà Trưng trong tâm thức người Việt [1] Blog tư liệu
  • Với những kẻ đầu cơ, cuộc chiến thật tuyệt vời Blog tư liệu
  • Nhà báo đoạt giải Pulitzer kể chuyện cuối tháng 4 năm 1975 Blog tư liệu
  • Tìm hiểu về ruộng Tịch điền và nghi lễ cày Tịch điền ở nước ta qua các triều đại phong kiến Blog tư liệu
  • Câu chuyện người vợ lính Mỹ mất tích ở Việt Nam Blog tư liệu
  • Phóng viên báo Nhật Asahi phỏng vấn Bộ trưởng Trần Huy Liệu Blog tư liệu
  • Sài Gòn năm xưa Blog tư liệu
  • Di tích văn hóa của người Chiêm thành ở xứ Bắc Kỳ Blog tư liệu
  • Hình ảnh Bảo Đại và các chính khách tại Hội nghị Hương Cảng 1947 Blog tư liệu
  • Những phiên chợ đặc biệt trong dịp Tết Blog tư liệu

Kerry – McCain: Một tình bạn khép lại cuộc chiến

Posted on 28/04/202528/04/2025 By editor No Comments on Kerry – McCain: Một tình bạn khép lại cuộc chiến

James Carroll

Thanh Trà dịch

Bài báo “A friendship that ended the war” (Một tình bạn khép lại cuộc chiến) của tác giả James Carroll, đăng trên The New Yorker số ra ngày 13/10/1996, mang đến góc nhìn sâu sắc về mối quan hệ giữa hai cựu binh John Kerry và John McCain – những người từng đứng ở hai phía của cuộc tranh luận về Chiến tranh Việt Nam nhưng về sau lại cùng nhau nỗ lực khép lại quá khứ. Bài viết cũng làm sáng tỏ cách mà Kerry và McCain, bằng sự thấu hiểu và lòng kiên trì, đã trở thành những nhân tố quan trọng trong tiến trình bình thường hóa quan hệ Việt – Mỹ, góp phần hàn gắn những vết thương chiến tranh kéo dài suốt nhiều thập kỷ. Bằng văn phong lôi cuốn và góc nhìn nhân văn, bài viết không chỉ kể về một tình bạn đặc biệt mà còn mở ra những suy ngẫm sâu xa về lòng dũng cảm, sự tha thứ và trách nhiệm đối với lịch sử. Tạp chí Phương Đông trân trọng giới thiệu với bạn đọc bản dịch toàn văn bài viết này.

1. Khách mời tại “Hanoi Hilton”

Vào Ngày Lễ Chiến sĩ Trận vong[1] năm 1993, hai thượng nghị sĩ Hoa Kỳ đã được đưa đi thăm một nhà tù ở trung tâm Hà Nội. Đó là một tòa nhà đồ sộ, nằm trong khuôn viên kín và chiếm phần lớn diện tích của một dãy phố ở giữa thành phố đông đúc. Các cửa sổ được gắn song sắt, và một số có cửa chớp. Nhà tù này được người Việt Nam gọi là Hỏa Lò, nhưng người Mỹ đặt tên cho nó là “Hanoi Hilton”. Trong chiến tranh, nhà tù này giam giữ các phi công bị bắt mà người Việt Nam gọi là “giặc lái”. Vào ngày này, một trong số họ đã trở lại lần đầu tiên kể từ khi được trả tự do: John McCain, hiện là thượng nghị sĩ Đảng Cộng hòa bang Arizona. Khi còn là phi công ném bom trong lực lượng hải quân, ông đã bị bắt giam gần sáu năm, từ tháng 10 năm 1967, khi máy bay của ông bị bắn hạ, cho đến tháng 3 năm 1973. Phần lớn thời gian ông bị giam tại Hỏa Lò, hơn hai năm trong số đó là ở chế độ biệt giam. Mùa hè năm ngoái, đông đảo khán giả truyền hình đã nghe McCain nhắc đến trải nghiệm này khi ông đề cử Bob Dole tại Đại hội Đảng Cộng hòa. “Đã lâu lắm rồi, trong một cuộc sống khác, tôi bị tước đoạt tự do của mình”, ông nói, với sự khiêm tốn của một người biết rằng việc bị cầm tù là điều làm ông trở nên khác biệt.

Khi trở lại Hỏa Lò năm 1993, McCain đi cùng John Kerry, một thượng nghị sĩ Đảng Dân chủ bang Massachusetts. Kerry, cũng là một cựu chiến binh Hải quân, là chủ tịch của Ủy ban Đặc biệt của Thượng viện về các vấn đề POW/MIA, trong khi McCain là đại diện hàng đầu của Đảng Cộng hòa tại Ủy ban; công việc của ủy ban đã đưa họ trở lại Việt Nam. Gần đây, Kerry kể lại với tôi về chuyến thăm nhà tù đó, miêu tả đoạn hành lang dẫn đến phòng giam cũ của McCain: “Ở cuối dãy bên phải khi chúng tôi bước vào, nằm trong góc. Đó chỉ là một xà lim rất nhỏ, tối tăm, ẩm thấp, với một khu vực nhỏ để ngủ, hầu như không phù hợp cho bất kỳ ai”.

Thượng nghị sỹ John McCain (phải) và Hạ nghị sỹ Pete Peterson (trái) (sau này là Đại sứ Hoa Kỳ đầu tiên tại Việt Nam sau chiến tranh) thăm nhà tù Hỏa Lò, ngày 1/6/1993. Ảnh: Hoàng Đình Nam / AFP
John McCain trên giường bệnh ở Hà Nội sau khi bị bắt làm tù binh. Ảnh: Francois Chalais

Trong một cuộc phỏng vấn gần đây, tôi đề nghị McCain miêu tả phòng giam đó. “Khoảng 9-10 feet x 7 feet”[2], ông nói, “có một cửa sổ nhỏ xíu ở phía trên cùng, có song sắt; một cánh cửa kim loại với một cái lỗ cửa mà lính canh có thể mở ra để nhìn vào trong”.

McCain từng liên lạc với người ở phòng bên cạnh bằng cách gõ vào tường và lắng nghe những tiếng gõ đáp lại. Tin tức được truyền qua mã gõ này bao gồm cả thông tin về các hoạt động phản chiến ở quê nhà. Những nhà hoạt động hòa bình như Tom Hayden và Jane Fonda đã xuất hiện tại “Hanoi Hilton” trong thời gian McCain bị giam giữ. Ông luôn từ chối gặp họ; các tù binh ghét những người phản chiến. Nhưng rồi, khi McCain ngồi tù được hơn ba năm, vào tháng 4 năm 1971, có tin về một cuộc biểu tình phản chiến còn đáng lo hơn. Khoảng một ngàn lính Mỹ mới trở về từ Việt Nam đã tập trung tại National Mall ở Washington để lên án chiến tranh. Dẫn đầu bởi một cựu sĩ quan Hải quân, họ đã ném các huân chương và ruy băng mà họ từng được trao qua hàng rào tại Tòa nhà Quốc hội.

Cựu sĩ quan Hải quân dẫn đầu cuộc biểu tình cựu chiến binh đó, người đã “trả lại” các ruy băng mà ông giành được cùng với một huân chương Sao Bạc, một huân chương Sao Đồng, và ba huân chương Trái tim Tím, chính là John Kerry. Kerry kể lại cảm giác khi đứng trước ngưỡng cửa phòng giam của McCain: “Tôi nhớ có một sự im lặng, và tôi nhớ rất rõ rằng chỉ có hai chúng tôi… Lúc đó, những người xung quanh như tan biến vào hậu cảnh, và chỉ còn hai chúng tôi đứng ở nơi này. Tôi nhớ cảm giác kính sợ trước những gì mà tôi hình dung người đàn ông này hẳn đã trải qua ở đây”. Chính Kerry cũng là một phần trong những điều mà McCain đã trải qua.

Đứng cạnh McCain tại Hỏa Lò đã khiến Kerry đối diện trực tiếp với sự mâu thuẫn đã định hình cuộc đời ông, cũng giống như nhà tù đã định hình cuộc đời McCain. Không giống McCain, người thẳng thắn đáng ngưỡng mộ, Kerry là một người đàn ông phức tạp; sự khác biệt này được phản ánh rõ trong trải nghiệm chiến tranh rất khác nhau của họ. Nhưng giờ đây, câu chuyện của McCain lại là tâm điểm. “Đó là lúc để tôi lắng nghe”, Kerry nói. “Tôi hỏi vài câu… và anh ấy kể một chút. Anh kể về người bạn phòng bên mà anh từng liên lạc và cách họ gõ vào tường… Anh kể rằng họ biết có một cựu chiến binh đã đứng lên và nói rằng chiến tranh là sai. Họ biết chuyện gì đang xảy ra”. Họ biết rằng một cựu sĩ quan Hải quân đã phản bội họ.

Năm 1984, mười ba năm sau cuộc biểu tình tại Tòa nhà Quốc hội, John McCain, lúc này đã là một dân biểu của bang Arizona, đến Massachusetts để vận động chống lại Kerry, ứng viên lần đầu tranh cử vào Thượng viện. Tại một buổi mít-tinh ở khu North End của Boston, McCain phát biểu ủng hộ ứng viên Đảng Cộng hòa, một doanh nhân tên là Ray Shamie. “Lúc đó tôi chưa từng gặp John Kerry”, McCain kể với tôi. Ở Boston, các đối thủ bảo thủ đã gán cho Kerry cái danh “ứng viên của Hồ Chí Minh”. McCain, trong buổi vận động ủng hộ Shamie, đã nói về sự kiện tháng 4 năm 1971: “Tôi nói rằng anh ấy không nên ném huân chương và rằng tôi đã nghe về việc đó khi đang ở trong tù”.

John McCain chưa bao giờ thay đổi ý kiến của mình về việc Kerry tham gia cuộc biểu tình phản chiến đó, nhưng ông đã thay đổi quan điểm về con người Kerry. Họ khác nhau ở nhiều điểm. Kerry cao gầy, với mái tóc sẫm màu được chải chuốt cẩn thận, mũi và cằm nhọn, đôi môi dường như nhỏ so với khuôn mặt, điều có lẽ giải thích tại sao nụ cười của ông có vẻ miễn cưỡng. Ông có thể sắm vai một thượng nghị sĩ quý tộc trong bất kỳ bộ phim nào. McCain thì giống như một người thợ sửa điện thân thiện của thượng nghị sĩ. Ông vạm vỡ, với mái tóc bạc trắng và làn da hơi nhợt nhạt của một người đã trải qua những điều khắc nghiệt. Nhưng nụ cười của ông lại dễ dàng và tự nhiên như một con thuyền đang cập bến. McCain là con cháu của các đô đốc, trong khi mẹ của Kerry thuộc tầng lớp thượng lưu ở Boston và cha ông là một quan chức ngoại giao. Kerry, một đảng viên Dân chủ theo chủ nghĩa tự do, thoải mái với vai trò là cộng sự cấp dưới của Thượng nghị sĩ Edward Kennedy; McCain tự hào kế thừa ghế Thượng nghị sĩ của Barry Goldwater. Kerry rời khỏi cuộc chiến Việt Nam với tư cách là một người phản đối chiến tranh hàng đầu, còn McCain lại là một trong số ít những anh hùng đích thực của nó.

Tuy nhiên, tên tuổi của họ đã gắn liền với nhau, không chỉ nhờ vào tình bạn đáng ngạc nhiên mà còn vì công việc mà họ đã cùng thực hiện tại Ủy ban Đặc biệt của Thượng viện. “Kerry-McCain” được nhắc đến như một từ ghép. Cụm từ này dùng để chỉ các đạo luật mà họ đã cùng bảo trợ và thể hiện một vị trí đặc biệt trong bối cảnh chính trị. Ví dụ, vào tháng 6 năm ngoái, một điều khoản do Kerry-McCain đề xuất đã cung cấp hàng triệu đô la tiền bồi thường cho các “biệt kích bị quên lãng” – những điệp viên bí mật của miền Nam Việt Nam mà CIA đã bỏ rơi từ lâu. “Mối quan hệ của chúng tôi giờ rất dễ dàng”, McCain nói với tôi, “lần gần đây nhất, về đội biệt kích… chỉ là một cuộc trò chuyện kéo dài hai phút. Chúng tôi không cần phải thăm dò quan điểm của nhau hay gì cả. Cả hai chúng tôi đều nghĩ như nhau, và cứ thế tiến hành thôi”. Tháng trước, khi một chương trình thảo luận trên kênh CNBC muốn có ý kiến về cuộc tấn công bằng tên lửa của Mỹ vào Iraq, Kerry và McCain đã xuất hiện như một cặp đôi. Bất chấp sự khác biệt về ý thức hệ, họ đã hình thành một mối quan hệ đối tác lưỡng đảng bền chặt, dựa trên một trải nghiệm chung, dù hiếm khi được nói ra, về sự mất mát, đau thương và cay đắng – những điều đã định hình cả một thế hệ người Mỹ từng chiến đấu ở Việt Nam và phản đối chiến tranh.

McCain từ lâu đã rút lại những lời ông từng nói để ủng hộ Ray Shamie vào năm 1984, và điều đó tốt cho John Kerry. Năm nay (1996), Kerry, đang tái tranh cử, có đối thủ là William Weld, thống đốc Đảng Cộng hòa nổi tiếng của Massachusetts. Sau hai nhiệm kỳ, Kerry có một hồ sơ ấn tượng ở cả cấp quốc gia và địa phương, nhưng trong chính trường Massachusetts, ông luôn bị cái bóng của Ted Kennedy che phủ. Giờ đây, sự tương phản giữa phong thái cực kỳ nghiêm túc của Kerry và vẻ hài hước tự trào của Weld (chẳng hạn, mùa hè vừa qua, Weld đã nhảy xuống sông Charles trong trang phục chỉnh tề) lại gây khó khăn cho Kerry: ông đang ngang ngửa với Weld trong các cuộc thăm dò dư luận. Việc Kerry từ chối – hoặc không có khả năng – đóng vai một người thoải mái, dễ gần hay một người sẵn sàng bộc lộ cảm xúc chân thành dường như khiến cử tri thời Clinton không mấy mặn mà với ông. Trong thời đại mà các giá trị của phim hài và phim truyền hình dài tập chiếm ưu thế, sự kín đáo của Kerry có thể đồng nghĩa với việc hy vọng lớn nhất của ông vào tháng 11 phụ thuộc vào sức hút của Tổng thống.

Ít có điều gì có thể giúp Weld nhiều như việc lặp lại cuộc vận động của McCain chống lại Kerry tại Massachusetts vào năm 1984. Thượng nghị sĩ bang Arizona, với tầm quan trọng được thể hiện qua vai trò đề cử Dole tại Đại hội Đảng Cộng hòa, là một trong những nhà vận động tranh cử được săn đón nhất của Đảng. McCain đang nỗ lực bảo vệ thế đa số của Đảng Cộng hòa tại Thượng viện, và ông coi chủ nghĩa tự do của các thành viên Dân chủ như Kerry là một mối đe dọa với tương lai của đất nước. Tuy nhiên, khi tôi hỏi liệu ông có tham gia vận động cho Weld, McCain đã lắc đầu dứt khoát và trả lời: “Tôi đơn giản sẽ không làm điều đó. Tôi không thể làm thế. Tôi ngạc nhiên vì bạn lại hỏi như vậy. Đi vận động chống lại John Kerry là điều mà tôi sẽ không bao giờ xem xét”. Sự tận tâm của McCain đối với Kerry là một điều khác thường trong chính trường Mỹ, và việc ít cử tri tại bang nhà của Kerry biết về điều đó hay về câu chuyện đằng sau nó cho thấy sự kín tiếng của ông.

John McCain cùng các tù binh Mỹ khác được trả tự do ở Hà Nội, ngày 14/3/1973. Ảnh: Lưu trữ Quốc gia Hoa Kỳ

John McCain và gần 600 tù binh chiến tranh khác đã trở về nhà vào đầu năm 1973, nhưng số phận của hơn 2000 người Mỹ chưa bao giờ trở về từ Việt Nam vẫn tiếp tục ám ảnh gia đình họ và cả quốc gia. Năm đời Tổng thống đã không thể xua tan những nghi vấn xoay quanh những người mất tích, một phần vì ít nhất ba Tổng thống trong số đó đã lợi dụng vấn đề này không chút e dè. Năm 1991, Thượng viện bắt đầu xem xét vấn đề này, và John Kerry cùng John McCain trở thành trung tâm của nỗ lực giải quyết bí ẩn đó. Cuộc đấu tranh đã khiến hai nhân vật tưởng chừng không liên quan trở thành những người bạn chính trị thân thiết nhất. Không bao giờ có chuyện họ nói với nhau “Tôi quý anh, anh bạn ạ”, đặc biệt với sự kín đáo của Kerry, nhưng các sự kiện sau đó đã cho thấy mối quan hệ của họ sâu sắc và rộng lớn. “Tôi rất thích anh ấy”, McCain nói với tôi. “Chúng tôi hòa hợp rất tốt. Điểm đặc biệt ở Thượng viện là bạn không giao lưu với ai cả”. Ông nói tiếp: “Nhưng khi chúng tôi cùng đi đến Việt Nam… chúng tôi trò chuyện”.

Thật kỳ lạ nhưng cũng đầy hợp lý khi người cùng McCain có mặt tại nhà tù Hỏa Lò vào năm 1993 lại chính là John Kerry. Trong suốt hai năm trước đó, theo lời một nhân viên của McCain, họ đã “bảo vệ nhau” trong cuộc chiến chính trị về những người Mỹ mất tích. Thomas Vallely, Giám đốc Chương trình Đông Dương tại Viện Phát triển Quốc tế Harvard và là người tổ chức Chương trình Việt Nam của viện này, đã theo dõi sát sao công việc của Ủy ban Đặc biệt. Ông kể: “Trong khoảng thời gian đó, đã có một cuộc chiến thực sự về vấn đề này. Mỗi ngày, luôn có ai đó cố gắng hạ bệ người này hoặc người kia. Và mỗi ngày, họ vẫn sát cánh bên nhau… và điều đó đã tạo nên tình bạn này”.

Thượng nghị sĩ John Kerry, Chủ tịch Ủy ban Đặc biệt của Thượng viện về các vấn đề POW/MIA, cùng Thượng nghị sĩ John McCain xem xét danh sách tổng hợp những người Mỹ mất tích trong một phiên điều trần của Ủy ban tại Điện Capitol, Washington, ngày 24/6/1992. Ảnh: John Duricka / AP

Thượng nghị sĩ Ted Kennedy cũng quan sát tiến trình này. “Kerry và McCain đã kề vai sát cánh vào thời điểm mà những người khác trong ủy ban chỉ đang chiều theo cảm xúc của công chúng”, ông nói với tôi. “Và những người chỉ trích họ đã rất gay gắt. Giữa họ đã hình thành một mối quan hệ tôn trọng lẫn nhau”.

Mối quan hệ đó không chỉ đem lại cấu trúc và mục đích cho Ủy ban Đặc biệt mà còn nhiều hơn thế. Sự hợp tác giữa họ đã tạo ra một động lực không ngờ tới. “Đây là một sự tiếp nối của chiến tranh”, Kerry nói với tôi. “Những lời dối trá, lừa gạt và lảng tránh này đã cướp đi mạng sống của rất nhiều bạn bè tôi… Dù là John Kerry hay John McCain, những người tiếp cận theo các cách khác nhau, tất cả chúng tôi đều cảm thấy bị phản bội”. Và như ủy ban của họ đã nghe thấy mỗi ngày trong suốt hơn một năm, điều đó vẫn đang tiếp diễn. Kerry và McCain nhận ra rằng họ vẫn còn những điều dang dở với Việt Nam – và họ đã gánh vác trách nhiệm đó cho cả quốc gia. Ted Kennedy nói với tôi: “John Kerry làm điều này vì vấn đề chiến tranh luôn cháy bỏng trong tâm hồn ông ấy, và ông ấy đã tìm thấy một tri kỷ ở John McCain”.

Ngay sau khi Kerry và McCain trở về từ Hà Nội, họ đã báo cáo với Tổng thống Clinton trong cuộc họp đầu tiên trong hai cuộc họp quan trọng tại Nhà Trắng. Họ xây dựng một liên minh mới tại Thượng viện. Sau Ngày Lễ Chiến sĩ Trận vong đó, họ trở về từ Việt Nam để khép lại chiến tranh.

2. Cơn thịnh nộ và tình bạn

John Kerry đôi khi bị miêu tả là một chính trị gia toan tính, cơ hội. Khi ông bắt đầu hẹn hò – và rồi kết hôn năm ngoái – với Teresa Heinz, góa phụ cực kỳ giàu có của Thượng nghị sĩ bang Pennsylvania John Heinz, một số người cho rằng đây là một cuộc hôn nhân quá thuận lợi đối với Kerry. (Ông có hai con gái lớn từ cuộc hôn nhân đầu tiên, kết thúc bằng ly hôn.) Nhưng đó là chuyện cá nhân, còn điều bị nghi vấn nhiều nhất lại chính là hành động công khai nổi bật nhất trong sự nghiệp lâu dài của Kerry: Nhiều năm sau sự kiện đó, có thông tin rằng những huân chương ông ném qua hàng rào Điện Capitol vào năm 1971 không phải là của ông. Chúng thuộc về hai cựu binh khác, những người không thể có mặt ở đó. Về phần mình, Kerry chỉ ném đi các dải ruy băng đi kèm với huân chương của ông. Một hành động đạo đức giả? Một dấu hiệu của thái độ cái gì cũng muốn? Nhiều cựu binh tham gia cuộc biểu tình đó cũng đã ném đi những dải ruy băng nhưng giữ lại huân chương; rất ít người ném cả hai. Những bức ảnh chụp bậc thềm Điện Capitol cho thấy huân chương, ruy băng, phù hiệu và cả giấy xuất ngũ bị ném đi. Đối với các cựu binh, việc họ chọn vứt bỏ thứ gì không phải là vấn đề, nhưng điều đó lại thường được viện dẫn để chống lại Kerry.

John Kerry chuẩn bị phát biểu trên bậc thềm Điện Capitol vào ngày 23 tháng 4 năm 1971, khi ông tham gia một cuộc biểu tình cùng hàng nghìn cựu binh khác. Tại đây, Kerry và các cựu binh đã ném huân chương và ruy băng qua hàng rào dựng trước tòa nhà Quốc hội Hoa Kỳ để bày tỏ sự phản đối cuộc chiến của Mỹ ở Việt Nam. Ảnh: Ken Hawkins

Tôi đã nghe Kerry phát biểu phản đối chiến tranh nhiều lần, bắt đầu từ mùa thu năm 1970. Tôi chưa bao giờ nghi ngờ, và đến giờ vẫn không nghi ngờ, tính chân thực trong hành động của ông. Cơ hội chủ nghĩa ư? Có thể Kerry đã nuôi tham vọng chính trị khi trở về từ Việt Nam, nhưng với những chia rẽ trong thời kỳ đó, ông có lý do chính đáng để tin rằng điều ông thực sự từ bỏ chính là cơ hội chính trị lớn nhất của mình.

Lúc đó, tôi là một linh mục Công giáo – tuyên úy tại Đại học Boston và là tình nguyện viên vận động cho linh mục Dòng Tên phản chiến Robert Drinan, người đang chạy đua vào Quốc hội. Kerry đôi khi giới thiệu Drinan tại các buổi vận động, và tôi nhớ đã từng chứng kiến một lần tại Đại học Boston. Người cựu binh Hải quân trẻ tuổi là một hình ảnh mà phong trào hòa bình chưa từng thấy trước đây. Tôi nhớ sự im lặng tò mò trong hội trường chật kín khi những thanh niên tóc dài ăn mặc lôi thôi của phong trào phản văn hóa dõi theo người quân nhân gầy guộc, chỉnh tề tiến lên bục phát biểu. Tôi nhớ vẻ dứt khoát đầy quyền uy khi ông thu hút sự chú ý của chúng tôi. John Kerry hiểu về chiến tranh không phải theo cách trừu tượng như những nhà tiên tri hòa bình khác. Trước Ủy ban Đối ngoại Thượng viện vào mùa xuân năm 1971, ông đã làm chứng: “Chúng tôi đã chứng kiến Việt Nam bị tàn phá ngang nhau bởi bom Mỹ, cũng như bởi các chiến dịch tìm-diệt, cũng như bởi khủng bố của Việt Cộng, nhưng chúng tôi vẫn phải lắng nghe khi đất nước này cố gắng đổ lỗi tất cả sự tàn phá đó cho Việt Cộng… Chúng tôi học được ý nghĩa của các khu vực bắn tự do – bắn vào bất cứ thứ gì chuyển động… Chúng tôi đã chứng kiến việc làm giả số lượng thương vong của Mỹ… Mỗi ngày, để tạo điều kiện cho quá trình rũ bỏ trách nhiệm của Mỹ ở Việt Nam, ai đó phải hy sinh mạng sống của mình để Mỹ không phải thừa nhận điều mà cả thế giới đã biết, để chúng ta không phải nói rằng chúng ta đã phạm sai lầm. Ai đó phải chết để Tổng thống Nixon không trở thành ‘Tổng thống đầu tiên thua một cuộc chiến’, theo chính lời ông ấy.

“Chúng tôi đang kêu gọi người Mỹ suy nghĩ về điều đó, bởi làm sao bạn có thể yêu cầu một người lính trở thành người cuối cùng chết ở Việt Nam? Làm sao bạn có thể đòi hỏi một người lính trở thành người cuối cùng hy sinh mạng sống vì một sai lầm?” Những lời của John Kerry – sự thật được rút ra từ trải nghiệm thực tế – đã xuyên qua những sáo ngữ chính trị phóng đại và gây tiếng vang với giới cầm quyền. Nhưng đối với những người cùng thế hệ với ông, lời chứng này còn mang một ý nghĩa khác: Kerry không chỉ lên tiếng cho những người đã ra trận mà còn cho cả những người phản đối chiến tranh. Là con trai của một quân nhân, tôi đặc biệt xúc động. Tôi là một người theo chủ nghĩa hòa bình nhưng có một bí mật: tôi đã lớn lên với niềm tin vào lý tưởng danh dự quân đội và vẫn khao khát một sự cứu rỗi cho nó. Nhiều năm sau, tôi mới hiểu rõ hơn cách cha tôi và những người như ông đã cố gắng bảo vệ sự chính trực về mặt đạo đức của đất nước chúng ta. Nhưng vào thời điểm đó, Kerry là người duy nhất khiến tôi cảm thấy rằng ta có thể vừa là một người yêu nước vừa là một người phản đối chiến tranh.

John Kerry nhận huân chương trong Chiến tranh Việt Nam, thập niên 1960. Ảnh: Kerry Campaign / Getty Images

“Vì tinh thần cao cả và gan dạ nổi bật trong chiến đấu” – đây là trích đoạn từ bản tuyên dương chính thức đi kèm Huân chương Sao Bạc được trao cho John Kerry vì hành động của ông trong trận chiến trên vùng sông nước Đồng bằng sông Cửu Long vào ngày 28 tháng 2 năm 1969. “Chiếc xuồng của Kerry bị trúng một quả rocket B-40 ở cự ly gần. Một lần nữa, Thiếu úy Hải quân Kerry ra lệnh cho đơn vị xông lên tấn công các vị trí của địch… Xuồng tuần tra cao tốc số 94 sau đó lao thẳng vào giữa trận địa đối phương, một lính địch bất ngờ bật dậy từ vị trí cách xuồng chưa đầy 10 feet (khoảng 3 mét) và bỏ chạy. Không do dự, Thiếu úy Kerry nhảy lên bờ, truy đuổi kẻ địch ra phía sau một túp lều và tiêu diệt hắn, đồng thời thu giữ một khẩu súng phóng lựu B-40 đã lên đạn”.

Gần đây, tôi hỏi Kerry về người mà ông ấy đã giết. Chúng tôi trò chuyện hơn một giờ, và lần đầu tiên ông ngập ngừng. Rồi ông nói: “Hoặc là anh ta, hoặc là chúng tôi. Chỉ đơn giản vậy thôi. Tôi không biết vì sao người chết không phải là chúng tôi – ý tôi là, đến tận bây giờ tôi vẫn không hiểu. Anh ta đã chĩa một quả rocket thẳng vào xuồng của chúng tôi. Anh ta nhô lên từ một cái hố, và không ai trong chúng tôi nhìn thấy anh ta cho đến khi anh ta đã đứng ngay trước mặt, nhắm thẳng vào chúng tôi. Nhưng vì một lý do nào đó, anh ta không bóp cò mà quay lưng bỏ chạy. Anh ta đã sốc khi thấy xuồng của chúng tôi ngay trước mặt. Nếu anh ta bóp cò, tất cả chúng tôi hẳn sẽ chết… Tôi sẽ không kể hết mọi chuyện. Tôi không muốn và cũng không thể. Những điều có lẽ đã thực sự khiến tôi thay đổi, tôi chưa từng nói với ai cả. Không ai có thể hiểu được”. Kerry dừng lại. Ông im lặng. Cuối cùng, ông kết luận: “Những chuyện này rất riêng tư. Đó là tuổi trẻ của chúng tôi”.

Trong chuyến thăm lại Cà Mau ngày 14/1/2017, Ngoại trưởng John Kerry bắt tay ông Võ Ban Tâm, 70 tuổi, người đã tham gia tấn công chiếc xuồng của John Kerry ngày 28 tháng 2 năm 1969. Ảnh: Alex Brandon / AP

Đó là sự vô tội mà ta vẫn tưởng, là sự đơn giản về mặt đạo đức. Một người lính Việt Nam, vì những lý do sẽ mãi mãi không ai biết, đã không thể ra tay giết John Kerry và đồng đội của ông. Đổi lại, John Kerry đã giết anh ta. Tất nhiên, sự kiện này mang trong nó một nghịch lý đạo đức: Liệu Kerry có thể đơn giản để người lính đó chạy thoát không? Nhưng còn khẩu rocket đã nạp đạn thì sao? Chính nghịch lý này khiến sự việc không chỉ đơn thuần là một hành động anh hùng, mà thay vào đó, đối với cả kẻ giết và người bị giết, nó trở thành một bi kịch. 

Kerry hiếm khi nói về trải nghiệm chiến đấu của mình. Một trợ lý cấp cao nhớ rằng lần duy nhất ông công khai nhắc đến nó là khi ông lên tiếng phản đối chiến dịch Bão Sa Mạc. Sau cuộc Chiến tranh Vùng Vịnh ngắn ngủi nhưng dữ dội, một nhóm thượng nghị sĩ đã bay đến Kuwait trong một chuyến thị sát. Kerry là một trong số họ, và McCain cũng vậy. Việc họ tình cờ cùng có mặt trên chiếc máy bay vận tải quân sự C-135 trống trải vào năm 1991 đã tạo cơ hội cho cuộc tiếp xúc lâu dài đầu tiên giữa hai người.

“Đêm đó, chúng tôi ngồi đối diện nhau trên máy bay”, Kerry kể lại với tôi. “John mặc áo khoác phi công” – chiếc áo khoác do Hải quân cấp từ thời ông còn học trường phi công, với dòng chữ “Trung úy McCain” trên phù hiệu. Lúc này, chiếc áo đã hơi chật. 

“Chúng tôi bắt đầu nói về chiến tranh, về Việt Nam, về nhà tù – những gì đã xảy ra với anh ấy và tất cả những chuyện đó… Trước đây chưa từng có điều gì gắn kết chúng tôi, và lúc đó, chúng tôi cứ thế trò chuyện. Chúng tôi nói về điều tôi đã làm”. Kerry đang nhắc đến sự kiện mà McCain từng chỉ trích trong chiến dịch vận động năm 1984. “Nhưng đến lúc này, chuyện đó không còn là rào cản lớn nữa”, ông kể tiếp. “Phải công nhận rằng, John cũng không cố biến nó thành rào cản. Anh ấy cho thấy rõ rằng mình đã bỏ lại tất cả những chuyện đó phía sau… Chiến tranh là một giai đoạn khó khăn đối với rất nhiều người, vì rất nhiều lý do. Cả hai chúng tôi đều quyết định gác lại tất cả những chuyện ấy và cùng nhau làm một điều gì đó”.

Các sự kiện đã mang đến cho họ một nhiệm vụ chung. Chỉ vài tháng sau cuộc trò chuyện trên chiếc C-135, tranh cãi cũ về việc lính Mỹ bị bỏ rơi ở Việt Nam lại bùng lên khi trang nhất các tờ báo và sau đó là trang bìa tạp chí Newsweek đăng một bức ảnh được cho là chụp ba tù binh Mỹ vẫn còn bị giam giữ. Ẩn sau vấn đề này, như mọi khi, là cuộc chiến chưa bao giờ thực sự kết thúc. “Tôi thực sự đã đặt mục tiêu mang đến một cái kết cho cuộc chiến đó”, Kerry nói với tôi. “Tôi biết rằng về mặt chính sách, điều đó cần phải xảy ra, và tôi nghĩ John cũng cảm thấy như vậy”. McCain đã đem đến cho Kerry sự chính trực không thể nghi ngờ về vấn đề cuộc chiến mà cả hai đều muốn chấm dứt. Kerry là người thúc đẩy quá trình này, nhưng chỉ có McCain mới có thể giúp ông hoàn thành nó.

Là một tù binh ở Hỏa Lò, nằm trên chiếc giường sắt trong xà lim ẩm thấp với ô cửa sổ “bé tí”, John McCain đã ru mình vào giấc ngủ mỗi đêm bằng cách ghi nhớ tên của các tù binh đồng đội. “Tôi bắt đầu với chữ A”, ông kể, rồi tiếp tục mô tả cách ông biết về sự xuất hiện của những tù binh mới thông qua hệ thống gõ mã tín hiệu. “Tôi đặt họ vào từng vị trí trong bảng chữ cái… Tôi gắn tên họ với một ý nghĩa nào đó: Brudno thì nghĩ đến ‘brute’ (kẻ thô bạo); Baker thì tôi nghĩ đến một ổ bánh mì. Tôi nhớ số lượng cái tên bắt đầu bằng mỗi chữ cái”. Đêm này qua đêm khác, suốt nhiều năm, McCain giữ một danh sách trong trí nhớ với tên của khoảng 170 tù binh. Hành động ghi nhớ này, cùng những việc làm tương tự của các tù binh khác, chính là khởi nguồn của “Bản danh sách” (The List), thứ đã ám ảnh nước Mỹ trong nhiều thập kỷ. 

Trong năm đầu tiên McCain bị giam giữ tại Hỏa Lò, cha của ông, Đô đốc Jack McCain, được bổ nhiệm làm Tư lệnh Bộ chỉ huy Thái Bình Dương (CINCPAC). Có lẽ vì lý do đó, Hà Nội đã đề nghị thả ông. Trên tường văn phòng của McCain tại Washington treo một bức điện tín của Bộ Ngoại giao, đề ngày 13 tháng 9 năm 1968. Nó cũng có dấu xác nhận giải mật vào ngày 24 tháng 9 năm 1992. Đây là một báo cáo gửi về Washington từ trưởng đoàn đàm phán Mỹ tại hội nghị hòa bình Paris năm 1968. Văn bản ghi: “Trong giờ giải lao cuối cùng, có mặt Lê Đức Thọ. Ông ta cho biết Bắc Việt Nam đã dự định thả con trai Đô đốc McCain như một trong ba phi công vừa được phóng thích gần đây, nhưng anh ấy đã từ chối”. Bức điện được ký tên “Harriman”.

Dù những vết gãy xương từ vụ bắn rơi máy bay gần một năm trước không được nắn chỉnh đúng cách và sức khỏe ngày càng suy yếu, McCain vẫn từ chối được thả: quy tắc danh dự của tù binh chiến tranh yêu cầu các tù binh phải được trả tự do theo thứ tự bị bắt, và có những người đã bị giam lâu hơn ông. McCain không được thả cho đến gần 5 năm sau đó, khi tất cả tù binh tại Hỏa Lò được trả tự do. Robert Timberg đã kể lại câu chuyện của McCain trong cuốn sách The Nightingale’s Song (Tiếng hát chim sơn ca) xuất bản năm 1995, một nghiên cứu về 5 cựu sinh viên Học viện Hải quân Annapolis. Khi McCain từ chối được thả vào năm 1968, một lính canh nói với ông: “Bây giờ, McCain, mọi chuyện sẽ rất tệ với anh”. Một chế độ tra tấn và đánh đập bắt đầu. Người Việt Nam tìm cách bẻ gãy ý chí của McCain. 

Sau một tuần, ông gục ngã. Ông ký vào một bản thú tội với nội dung: “Tôi là một tên tội phạm xấu xa và tôi đã thực hiện những hành động của một giặc lái. Tôi suýt chết, và nhân dân Việt Nam đã cứu mạng tôi”. Khi bị đưa trở lại xà lim, McCain đã thay đổi. “Sự ngạo nghễ đã biến mất, thay vào đó là một nỗi tuyệt vọng nghẹt thở”, Timberg viết. “Anh nhìn lên ô cửa trên cao, rồi nhìn chiếc ghế nhỏ trong phòng. Anh cởi chiếc áo tù màu xanh đậm, cuộn lại như một sợi dây, quàng một đầu qua vai, rồi bắt đầu luồn đầu còn lại qua song cửa…” 

“Một lính canh lao vào phòng, kéo McCain ra khỏi cửa sổ”.

Thượng nghị sĩ John McCain cùng vợ con thăm lại nhà tù Hỏa Lò năm 2000. Ảnh: Philip Jones Griffiths

Khi tôi hỏi McCain về thái độ của ông đối với các hoạt động phản chiến của John Kerry – điều mà ông vẫn không tán thành – câu trả lời của ông lại hướng về những điều mà chính ông vẫn chưa thể chấp nhận ở bản thân. Nhắc đến The Nightingale’s Song, ông hỏi: “Anh có đọc trong cuốn sách đó rằng tôi đã thất bại không? Vậy chẳng phải điều đó giúp tôi hiểu rằng người khác cũng có thể thất bại hay sao? Tôi biết quy tắc ứng xử là gì. Tôi biết mình phải làm gì và tôi biết rằng mình phải làm mọi thứ có thể để đạt được mục tiêu đó – mọi thứ mà con người có thể làm được. Điều đó rất rõ ràng với tôi. Và, như anh biết đấy, Jim” – đây là lần đầu tiên McCain gọi tôi một cách thân mật – “anh hiểu điều này hơn bất kỳ ai từng phỏng vấn tôi”. Câu nói thẳng thắn ấy có thể bị xem như một chiêu trò khéo léo của một chính trị gia lão luyện nhằm ve vuốt cái tôi của người viết, nhưng bản năng của tôi lại mách bảo điều khác. Tôi biết rằng McCain đang nghĩ đến cha ông và cha tôi, những người từng là đồng đội. Khi Thiếu tá John McCain III bị bắn hạ, và khi Đô đốc McCain giữ chức CINCPAC, cha tôi – Trung tướng Joseph F. Carroll (Không quân Hoa Kỳ) – là giám đốc Cơ quan Tình báo Quốc phòng (DIA), người chịu trách nhiệm theo dõi các tù binh chiến tranh ở Việt Nam. Không loại trừ khả năng, như một phép lịch sự, cha tôi đã đích thân báo cáo cho Đô đốc McCain về những thông tin mà DIA thu thập được liên quan đến tình trạng của con trai ông.

“Khi anh lớn lên trong môi trường đó, tiêu chuẩn của cha anh rất rõ ràng”, McCain nói. “Tiêu chuẩn của tôi cũng rõ ràng, và tôi biết ông già vẫn đang ở ngoài kia, và tôi không muốn ông ấy… Anh biết đấy”. Tôi hiểu. Có thể tôi đã mạo muội, nhưng tôi nói với McCain rằng, hơn bất kỳ hành động anh hùng nào của ông, tôi coi khoảnh khắc ông bị hạ nhục mới là chìa khóa để hiểu con người ông đã trở thành. “Tôi nghĩ anh nói đúng”, ông đáp. “Đó thực sự là một điểm khủng hoảng. Có lẽ nó đã thay đổi phần nào hướng đi của cuộc đời tôi, và khiến tôi trở thành một con người khác trong quan hệ với người khác”. Rồi sự ngập ngừng biến mất khỏi giọng nói của ông. “Không còn nghi ngờ gì về điều đó”, ông nói. 

Không lâu sau khi McCain bị bắt vào năm 1967, một phái đoàn các nhà hoạt động hòa bình Hoa Kỳ, do Tom Hayden dẫn đầu, đã đến nhà tù Hỏa Lò. Nhiều năm sau, Hayden và McCain gặp lại nhau trong một trường quay của kênh ABC, tại một chương trình nhìn lại Chiến tranh Việt Nam do Peter Jennings dẫn. “Có khoảng 25 người ở đó”, gần đây Hayden kể lại với tôi. “Tôi nhìn thấy McCain. Khi ông ấy thấy tôi, trông ông có vẻ lạnh lùng và không thoải mái. Căn phòng rất đông. Tôi tiến lại gần và nói vài lời về sự hòa giải. Khuôn mặt ông ấy giãn ra. Ông đưa tay ra với tôi và chào tôi một cách nồng ấm”.

McCain nhớ lại cuộc gặp với Hayden tại ABC, và đồng ý rằng đó là một sự kiện có ý nghĩa. “Tôi nghĩ đó là một cơ hội để nói rằng chúng tôi hiểu quan điểm của nhau”, ông nói.

Hayden, khi nhắc đến một điều tôi đã viết trong một ngữ cảnh khác, nói với tôi rằng McCain “có tâm thế của một người đã được tha thứ”, ý rằng McCain hiểu thế nào là cần được tha thứ, và đó cũng là cách duy nhất để học cách tha thứ. Ông là con cháu của những anh hùng, nhưng đối với chính mình, ông cảm thấy đã phản bội truyền thống ấy. Và ông đã đi theo cùng một hành trình mà đất nước của ông đang trải qua – từ niềm tin chắc chắn vào sự vượt trội đạo đức đến cảm giác tủi hổ và ô nhục. 

Giờ đây, McCain đã rời xa suy nghĩ về cái chết. Ông đã trải qua nhiều khó khăn, bao gồm cả một vụ bê bối chính trị – ông từng nằm trong nhóm “Keating Five”[3] – và những rạn nứt đau đớn trong đời sống gia đình. Cuộc hôn nhân đầu tiên của ông với Carol Shepp, mẹ của ba người con lớn, không thể tồn tại sau khi ông trở về từ Việt Nam. (Với người vợ thứ hai, Cindy Hensley, ông bắt đầu một gia đình mới, có hai con trai và hai con gái.) Dù vậy, nhận xét của Tom Hayden dường như vẫn đúng. McCain mang dáng vẻ của một người đã tìm được sự bình yên với chính mình và với thế giới. “Chúng tôi có một ngôi nhà ở phía bắc Arizona, trong một thung lũng nhỏ”, ông nói. Lúc đó, chúng tôi đang ngồi trong văn phòng của ông, và tôi thấy nét mặt ông thư giãn khi kể chuyện. “Và niềm vui lớn nhất của tôi – điều này chứng tỏ tôi đã già rồi – là thức dậy vào buổi sáng, rót một tách cà phê, ra ngồi trên một chiếc ghế bên suối và ngắm mặt trời mọc. Tôi không thể diễn tả được tôi hạnh phúc đến nhường nào. Tôi không thể diễn tả được sự bình yên trong lòng mình khi nghĩ về cuộc đời, gia đình, đất nước, bạn bè. Đôi khi tôi cảm thấy mình may mắn hơn nhiều so với những gì mình đáng được hưởng. Tôi đã có một trải nghiệm kinh khủng. Nhưng tôi trở thành một con người tốt hơn nhờ trải nghiệm ấy, đến mức, ở một khía cạnh nào đó, tôi thấy mình thật may mắn”.

3. Cuộc chiến tranh Việt Nam lần thứ 2

Có những lý do chính đáng khiến người Mỹ gặp khó khăn trong việc khép lại cuộc chiến ở Việt Nam. Hơn 50 triệu thanh niên Mỹ đã tạo nên thế hệ Việt Nam, trong đó nam giới chiếm hơn một nửa. Hơn 8 triệu người đã phục vụ trong quân đội, và hơn 3 triệu người từng tham chiến ở Việt Nam. 3/4 triệu binh sĩ đã trực tiếp chiến đấu, 321.000 người bị thương, 58.000 người tử trận. Trong cuốn Achilles ở Việt Nam xuất bản năm 1994, bác sĩ tâm thần Jonathan Shay cho biết 250.000 cựu chiến binh vẫn đang phải chịu đựng chứng rối loạn căng thẳng sau sang chấn.

Các quân nhân Hoa Kỳ thuộc Cơ quan Kiểm kê Tù binh/Người mất tích trong chiến tranh (DPAA) phủ lá cờ Hoa Kỳ lên quan tài chứa hài cốt của các quân nhân Hoa Kỳ chưa xác định danh tính trong buổi lễ hồi hương do DPAA tổ chức tại Hà Nội, Việt Nam, ngày 13 tháng 12 năm 2017. Ảnh: Jamarius Fortson / Quân đội Hoa Kỳ

Những năm đầu của cuộc chiến từng được đánh dấu bởi niềm tin tuyệt đối của Robert S. McNamara khi ông theo dõi “số lượng tiêu diệt” – một chỉ số mà về sau thực tế chứng minh là vô nghĩa, nếu không muốn nói là hoàn toàn sai lệch. 20 năm sau, một cuộc đếm xác ghê rợn khác lại diễn ra, lần này là việc truy tìm “hài cốt” của những binh sĩ Mỹ mất tích. Nhưng những thông tin mâu thuẫn – đặc biệt gây đau đớn cho gia đình những người mất tích – chỉ càng làm gia tăng cơn giận dữ và cay đắng ở những người yêu nước, giống như cảm xúc mà những người phản chiến từng trải qua trước đây. Con số 1303 MIA (lính Mỹ mất tích) được đưa ra vào năm 1973 đã giảm xuống còn 224 vào năm 1978. Con số này lại tăng vọt lên 2500 vào năm 1980. Đến năm 1987, số MIA chính thức được công bố là 269, nhưng lúc này, nhiều cựu chiến binh và thân nhân không còn tin vào bất kỳ tuyên bố nào từ chính phủ nữa.

Theo thời gian, huyền thoại đã lấn át thực tế. Hình ảnh người tù binh chiến tranh (POW) trở thành một dạng ảo tưởng quốc gia – nhưng là ảo tưởng có mục đích. Trong suốt thập niên 70 và 80, Mỹ đã trả đũa những người Việt Nam chiến thắng bằng cách bôi xấu họ tồi tệ hơn cả khi cuộc chiến đang diễn ra, tất cả xoay quanh việc cho rằng họ đã không chịu thả tù binh. Những bộ phim như “Rambo” và các tác phẩm bắt chước đã dựng nên cảnh các trại giam giữa rừng rậm, nơi những người Mỹ gầy gò bị nhốt trong “chuồng cọp”. Những người hăng hái đã mơ về những chiến dịch giải cứu thực sự, và đôi khi còn tìm được những nhà bảo trợ, chẳng hạn như Ross Perot[4] luôn sẵn sàng. Một số cựu binh vô lương tâm bắt đầu khai thác tâm lý chờ đợi mòn mỏi của các gia đình, biến cuộc tìm kiếm những tù binh ảo thành một hoạt động thương mại. Sau đó, ở phía châu Á, cũng hình thành cả một ngành công nghiệp làm giả “bằng chứng” tù binh, chẳng hạn như thẻ căn cước kim loại trông rất giống thật và những bức ảnh đã chỉnh sửa, để đem bán. Các chính trị gia như Bob Dole có thể thật lòng quan tâm đến những người lính mà họ đã khắc tên trên vòng đeo tay[5] – John McCain đã từng cảm kích nhắc đến điều đó trong bài phát biểu đề cử của mình – nhưng rồi vấn đề này đã vượt khỏi tầm kiểm soát của họ.

Vòng đeo tay khắc tên lính Mỹ bị bắt làm tù binh trong Chiến tranh Việt Nam. Ảnh: reneebeck.com

Các gia đình – những người vợ, người con, anh chị em và cha mẹ sống trong nỗi ám ảnh day dứt – bị những doanh nghiệp tư nhân cáo già bao vây, nhưng chính những cơ quan chính phủ vô tâm và cẩu thả mới là kẻ khiến họ tổn thương nhiều nhất. Trong một số trường hợp, “hài cốt” được “phát hiện” sau nhiều năm và được trao lại cho gia đình, nhưng khi các gia đình nhờ chuyên gia riêng kiểm tra, họ phát hiện ra rằng những bao xương khô đó là hài cốt của người châu Á hoặc thậm chí là xương động vật. Đôi khi, những bằng chứng nghiêm túc về số phận thực sự của một MIA đã bị bỏ qua, trong khi những tin đồn hoang đường về việc “phát hiện người còn sống” lại được coi là đáng tin, làm nảy sinh những hy vọng không tưởng. Những nỗ lực của 5 đời tổng thống nhằm giải quyết vấn đề này đều hời hợt hoặc bị chính trị hóa vô phương cứu chữa – bị trói buộc vào những toan tính mang tính đảng phái.

Một loạt các phiên điều trần, ủy ban và hội đồng về POW/MIA đã được tiến hành chỉ vài tuần sau khi các tù binh – trong đó có McCain – được thả khỏi nhà tù Hỏa Lò ở Hà Nội vào năm 1973. Mỗi cuộc điều tra như vậy cuối cùng đều kết luận rằng không có bằng chứng cho thấy người Mỹ còn bị giam giữ. Tuy nhiên, những người vẫn nuôi giấc mộng như trong phim Rambo lại được tiếp thêm niềm tin khi Ronald Reagan tiếp nhận vấn đề POW/MIA và dường như chấp nhận huyền thoại về những chuồng cọp trong rừng.

Năm 1987, Tổng thống Reagan bổ nhiệm Tướng John Vessey, cựu Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân, làm Đặc phái viên của Hoa Kỳ tại Việt Nam về các vấn đề POW/MIA. Vessey được các Tổng thống Bush và Clinton tái bổ nhiệm vào vị trí đó và cuối cùng đã đóng góp nhiều hơn bất kỳ cá nhân nào khác trong việc giải quyết vấn đề này. Tuy nhiên, ban đầu, “nhóm vây quanh Tổng thống Reagan đã cản trở Vessey”, theo lời Thomas Vallely từ Đại học Harvard. “Họ muốn tiếp tục chiến tranh thêm một thời gian nữa”. Mỗi khi Hà Nội tiến gần đến việc thực hiện những điều kiện mà Vessey và những người khác cho là cần thiết để bình thường hóa quan hệ, “chúng ta lại đặt ra những điều kiện khác”, McCain cho biết. Người Việt có lý do của họ khi không tin vào những gì Hoa Kỳ nói.

(Từ trái qua phải) Thượng nghị sĩ John McCain, Thượng nghị sĩ John Kerry, Tổng thống George Bush, Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân Colin Powell và Tướng John Vessey tham dự một cuộc họp báo về các binh sĩ mất tích trong Chiến tranh Việt Nam. Ảnh: Jeffrey Markowitz/Sygma

Tất cả dường như đã trở thành một trường hợp của các “quy tắc thống nhất” theo Aristotle. Những lời dối trá lúc khởi đầu cuộc chiến đã trở thành giả định về sự dối trá kéo dài mãi, ngay cả khi cuộc chiến đã kết thúc đối với cả thế giới, trừ chúng ta. Suốt hai thập kỷ, tất cả điều này vẫn bám chặt lấy chúng ta: cảm giác tội lỗi và đau buồn chưa được giải tỏa; tâm trạng phẫn nộ đối với chính quyền và nỗi mất mát danh dự cá nhân; sự suy giảm lòng tự trọng của người Mỹ; và thái độ nghi ngờ người láng giềng có trải nghiệm chiến tranh khác mình. Dường như chúng ta đã bị nhiễm một loạt virus có liên hệ với nhau, làm suy nhược nhưng không đủ để giết chết – đó chính là hội chứng Việt Nam.

Trong chiếc chuồng cọp ở tâm điểm của hội chứng này luôn là hình ảnh cúi đầu của tù binh Mỹ, người mà chúng ta đã phản bội và bỏ rơi. Làm sao chúng ta có thể phớt lờ bức ảnh được công bố vào tháng 7 năm 1991 cho thấy 3 tù binh Mỹ bị giam giữ? Bức ảnh được đặt tên là “Ba người bạn” và được in lại ở khắp nơi. Gia đình của những “người bị bắt” đã nhận ra họ. “Đó là cha tôi”, con gái của một đại tá không quân nói trên chương trình “Good Morning America”.

Hóa ra đó là một hình ảnh đã được chỉnh sửa – vốn là bức ảnh chụp ba người nông dân Nga cách đây 70 năm – do những kẻ lừa đảo ở Campuchia tạo ra. Nhưng đến thời điểm đó, vấn đề POW/MIA đã căng thẳng trở lại và mang đậm màu sắc chính trị. Susan Katz Keating viết trong cuốn Prisoners of Hope (Những tù binh của hy vọng) rằng một cuộc khảo sát được thực hiện vào đầu những năm 90 cho thấy 70% công chúng Mỹ tin rằng vẫn còn tù binh Mỹ bị giam giữ ở Đông Nam Á. Thượng nghị sĩ Bob Smith, đảng Cộng hòa bang New Hampshire, đã kêu gọi mở một cuộc điều tra nữa, và Ủy ban Đặc biệt của Thượng viện về các vấn đề POW/MIA đã được thành lập.

Bất chấp lời khuyên của đội ngũ trợ lý – những người cho rằng việc lập thêm một ủy ban nữa là một vũng lầy chính trị – Kerry vẫn đồng ý khi Lãnh đạo phe đa số Thượng viện George Mitchell đề nghị ông làm Chủ tịch ủy ban. “Đây không phải là việc mang lại lợi ích chính trị gì cho ông ấy”, Thượng nghị sĩ Kennedy nói với tôi. “Nhưng cuối cùng, nó đã trở thành một hành động phục vụ quốc gia thực sự”.

McCain, cựu tù binh chiến tranh, cũng được bổ nhiệm vào ủy ban. Ông từng đến Việt Nam thay mặt Tổng thống Bush để hỗ trợ những nỗ lực của Tướng Vessey. Ông đã gặp gỡ các lãnh đạo Việt Nam. “Họ chưa bao giờ hiểu nổi tất cả những cáo buộc rằng họ còn giữ người”, ông nhớ lại. “Hết lần này đến lần khác, họ nói với tôi, ‘Chúng tôi giữ họ để làm gì?’”. McCain hiểu rõ sự khó khăn khi thuyết phục giới chức Việt Nam, chỉ vì vài trăm người Mỹ mất tích lâu ngày, hợp tác trong công việc điều tra mà Hà Nội sẽ không bao giờ có thể làm được cho hàng trăm ngàn quân nhân mất tích của chính họ. Ông biết rằng theo tín ngưỡng Phật giáo, nếu thi hài chưa được an táng hoặc an táng không đúng cách thì linh hồn sẽ mãi mãi vất vưởng, vì vậy đối với người Việt, số phận những người con mất tích của họ không hề là chuyện nhỏ.

“Trước khi ủy ban này được thành lập, bất kỳ cáo buộc điên rồ hay câu chuyện hoang đường nào cũng lập tức được tin tưởng”, McCain nói với tôi. “Nhờ vào quá trình làm việc cẩn trọng và bài bản mà John Kerry thực hiện… người dân Mỹ đã hiểu rõ hơn nhiều về thực tế”. Kerry đã đến Việt Nam tám lần, chỉ đạo việc nghiên cứu hàng ngàn tài liệu và hình ảnh; ông cũng tổ chức các phiên điều trần với thân nhân của những người mất tích, lãnh đạo các tổ chức cựu chiến binh, quan chức tình báo và những người từng tham gia hòa đàm Paris. Ông đã triệu tập hàng trăm người ra điều trần và lần đầu tiên buộc những người từng điều hành cuộc chiến, bao gồm cả Henry Kissinger, phải tuyên thệ sẽ nói sự thật.

Cựu Ngoại trưởng Hoa Kỳ Henry Kissinger trò chuyện với Thượng nghị sĩ John Kerry, Chủ tịch Ủy ban Đặc biệt của Thượng viện về các vấn đề POW/MIA, ở Capitol Hill, Washington, ngày 22/9/1992. Ảnh: AP

Kerry và McCain, nhờ “đồng sức đồng lòng”, theo lời một nhân viên ủy ban, đã thuyết phục được phía Việt Nam bàn giao nhiều tài liệu liên quan đến tù binh chiến tranh; trong một lô tài liệu có cả chiếc mũ bay cũ của McCain. Điều có lẽ còn đáng kinh ngạc hơn là họ còn buộc được Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ giải mật hơn một triệu trang tài liệu. Mọi giả thuyết có thể nghĩ đến đều được đưa ra bàn luận, mọi cáo buộc được xem xét, và mọi tia hy vọng đều được lắng nghe. Và kết quả của cuộc điều tra này, theo báo cáo cuối cùng dài 1.223 trang, là “dù Ủy ban có một số bằng chứng cho thấy có khả năng một số tù binh chiến tranh có thể còn sống đến nay, và một số thông tin vẫn chưa được điều tra hết, nhưng tại thời điểm này, không có bằng chứng thuyết phục nào chứng minh rằng còn có người Mỹ đang bị giam giữ ở Đông Nam Á”.

Cách diễn đạt thận trọng của kết luận này không che giấu ý nghĩa của nó đối với những người vốn dĩ sẽ không bao giờ chịu từ bỏ vấn đề này. Họ trở nên giận dữ và trút cơn tức giận vào người mà sự tham gia của ông đang làm lung lay mục tiêu của họ: John McCain, người từng đọc thuộc tên các tù binh chiến tranh trước khi đi ngủ mỗi đêm. Tôi đã thấy điều này cách đây không lâu, tại Đài tưởng niệm Cựu chiến binh [tham chiến tại] Việt Nam ở Washington. Tại đó, du khách có thể mua áo thun, đề can và các món quà lưu niệm khác, cũng như có thể lấy miễn phí tờ báo The U.S. Veteran Dispatch phát hành hai tháng một lần. Trên trang nhất của số tháng 6-7 năm 1996 là bức ảnh John McCain thời trẻ, được cho là trong thời gian bị giam ở Hà Nội. Dòng tít lớn ghi “PW SONG BIRD MC CAIN” với chú thích “McCain đã được trao danh hiệu ‘PW Songbird’[6] vì những buổi phát thanh tuyên truyền ông từng thực hiện cho Cộng sản trong Chiến tranh Việt Nam”. Bài viết cáo buộc này được viết bởi một cựu đặc nhiệm Green Beret (Mũ beret xanh)[7] có nhiều thành tích chiến đấu ở Việt Nam. Một bài viết trong số báo trước đó có tiêu đề “JOHN MCCAIN: ‘ỨNG VIÊN MÃN CHÂU’[8]”.

Tại nhà riêng ở Washington, Kerry ngồi cúi người về phía trước, nói với tôi: “Nghe này”, ông nói. “Tôi đã bảo vệ anh ấy trong các phiên điều trần khi một kẻ ngu ngốc nào đó từ cánh hữu cáo buộc anh ấy là Ứng viên Mãn Châu, rằng bằng cách nào đó người Việt Nam đã tẩy não anh ấy. Đây là thứ nhảm nhí tàn nhẫn, xúc phạm và vô lý nhất mà tôi từng nghe trong đời, xuất phát từ một kẻ hèn hạ ở đâu đó, nhắm vào một người từng bị tra tấn suốt bao năm, vẫn đứng lên vì đất nước và hết lòng vì đất nước như anh ấy. Thật khó tin là có người lại hành xử như vậy, thật bất ngờ”.

Đôi khi McCain bị tấn công bởi các thượng nghị sĩ khác và đôi khi bởi các nhân chứng. Ông trở thành tâm điểm hứng chịu chỉ trích. Một thành viên trong ủy ban kể với tôi rằng khi Kerry và McCain ngồi gần nhau trên bục của các thượng nghị sĩ, vào những khoảnh khắc như thế, Kerry thường âm thầm đưa tay sang và đặt lên cánh tay McCain, giữ nguyên như vậy, một cử chỉ thầm lặng thể hiện sự ủng hộ tuyệt đối giữa hai người. Tôi hỏi McCain liệu ông có để ý đến cử chỉ đó của Kerry không. “Có chứ”, ông trả lời. “Anh ấy đã làm vậy vài lần, và tôi rất mừng vì điều đó. Tôi biết ơn anh ấy”.

Năm 1992, khi các cuộc thảo luận của ủy ban do Kerry chủ trì đang gần đi đến kết luận, McCain đang bước vào cuộc tái tranh cử. Mùa thu năm đó, ông thực hiện một trong nhiều chuyến công tác đến Việt Nam. Đối thủ Đảng Dân chủ của ông lập tức lợi dụng chuyến đi này để công kích, ngụ ý rằng McCain chỉ đang cố phô trương hình ảnh. Bản thân Kerry từng là mục tiêu của những đòn công kích kiểu đó, nên ông lập tức tổ chức một bức thư chung từ các thành viên ủy ban, cả Dân chủ lẫn Cộng hòa, để bảo vệ McCain. Thượng nghị sĩ Bob Kerrey, bang Nebraska, một thành viên ủy ban và là người từng nhận Huy chương Danh dự, dù đã đến Arizona để vận động cho đảng Dân chủ nhưng vẫn lên tiếng ủng hộ McCain về vấn đề này. McCain đã giành chiến thắng trong cuộc bầu cử. Kerry và McCain đã đi một chặng đường dài kể từ sự kiện ở North End của Boston.

Thượng nghị sĩ Chuck Hagel (Cộng hòa – Nebraska), bên trái, và TNS John Kerry (Dân chủ – Massachusetts) bắt tay nhau, trong khi phía sau từ trái sang là TNS Bob Kerrey (Dân chủ – Nebraska), TNS Chuck Robb (Cộng hòa – Virginia), TNS John McCain (Cộng hòa – Arizona), và phía trước là TNS Max Cleland (Dân chủ – Georgia), cùng có mặt tại lễ kỷ niệm 15 năm Đài tưởng niệm Cựu chiến binh Chiến tranh Việt Nam, Washington, ngày 7/3/1997. Cả sáu thượng nghị sĩ đều từng phục vụ trong Chiến tranh Việt Nam. Ảnh: AP

“Trong quá trình thảo luận của ủy ban”, McCain nói với tôi, nhắc đến giai đoạn kết thúc của tiến trình, “John Kerry cho rằng điều rất quan trọng là tất cả mọi người – các thượng nghị sĩ Cộng hòa lẫn Dân chủ – phải cùng ký vào bản báo cáo. Bởi nếu chỉ một hoặc hai người không ký, thì phe cực đoan sẽ lập tức nhắm vào người đó. Tôi đã vài lần có những cuộc tranh luận rất sôi nổi, phải nói là căng thẳng, với một vài thượng nghị sĩ – kiểu đối đầu trực diện. John Kerry (anh ấy đáng được ghi nhận vĩnh viễn, và tôi đáng bị chê trách mãi mãi, được chưa?) luôn nói: ‘Hãy thảo luận đi. Hãy nói chuyện thẳng thắn’. Anh ấy xử lý chuyện này rất chín chắn – chín chắn hơn tôi nhiều”.

Báo cáo của Ủy ban Đặc biệt được công bố vào ngày 13 tháng 1 năm 1993, có chữ ký của tất cả các thành viên. Kết luận nhất trí của cả hai đảng về việc “không có bằng chứng thuyết phục” đã gần như loại bỏ vấn đề tù binh bị bỏ rơi ra khỏi cuộc tranh luận chính trị chính thống, nhưng bản thân quá trình dẫn đến kết luận ấy cũng quan trọng không kém. Trên thực tế, Kerry và McCain đã chủ trì giai đoạn cuối cùng của “công việc đau thương” của cả quốc gia, tạo ra một diễn đàn nơi những câu chuyện cuối cùng về những người đã chết trong chiến tranh có thể được kể ra.

Ủy ban hoàn thành nhiệm vụ đúng lúc Bill Clinton nhậm chức tổng thống. Bước tiếp theo sẽ là dỡ bỏ lệnh cấm vận, tiến tới bình thường hóa quan hệ giữa hai quốc gia. Nhưng liệu Clinton có dám làm điều đó? George Bush, một cựu binh của một cuộc chiến khác, đã có thể là người thực hiện bước đi đầu tiên, nhưng vì những lý do riêng, ông đã không làm vậy. Trong chiến dịch tranh cử tổng thống năm 1992, ông từng bị la ó tại một hội nghị của các nhà hoạt động POW/MIA. Có lẽ, như Vallely suy đoán, ông đã quyết định “để lại đống rối rắm này cho người kế nhiệm, người chưa từng tham chiến”.

Ngay từ đầu nhiệm kỳ, Clinton đã được các lãnh đạo tổ chức cựu chiến binh cảnh báo không nên xuất hiện tại Đài Tưởng niệm Cựu chiến binh [tham chiến tại] Việt Nam. Khi nghe tin đó, McCain – “gần như theo bản năng”, ông kể với tôi – đã đề nghị được đi cùng Tổng thống. Kerry và McCain đã đồng hành cùng Clinton cho đến chặng cuối cùng. Trong một cuộc họp quan trọng tại Nhà Trắng vào ngày 11 tháng 6 năm 1993, chưa đầy hai tuần sau chuyến thăm nhà tù Hỏa Lò, hai thượng nghị sĩ đã thúc giục Tổng thống dỡ bỏ lệnh cấm vận, đưa ra các lý do về địa chính trị, kinh tế và đặc biệt nhấn mạnh vấn đề danh dự quốc gia, vì phía Việt Nam đã nỗ lực thực hiện tất cả những gì chúng ta yêu cầu trong vấn đề MIA. Tuy nhiên, Thượng nghị sĩ Cộng hòa bảo thủ Bob Smith, phó chủ tịch Ủy ban của Kerry, đã khuyên Clinton “đừng để bị đánh lừa” và phản đối việc dỡ bỏ cấm vận.

Một tuần sau, vào ngày 19 tháng 6, Tổng thống Clinton đến Boston để đọc diễn văn tại lễ tốt nghiệp của Đại học Northeastern, và hai thượng nghị sĩ bang Massachusetts đã tháp tùng ông. Buổi lễ được tổ chức tại nhà thi đấu Boston Garden cũ. Thượng nghị sĩ Kennedy kể với tôi: “Chúng tôi có thời gian trò chuyện sau hậu trường với Tổng thống, và John đã dành toàn bộ thời gian để trình bày cho Tổng thống tất cả những gì liên quan đến bình thường hóa quan hệ. Đó là một cuộc trao đổi trực tiếp rất thuyết phục, trình bày toàn diện và rõ ràng mọi khía cạnh của vấn đề. Những gì John đã làm là điều vô cùng thiết yếu giúp Tổng thống đi đến quyết định cuối cùng”. Nhưng trong suốt mùa hè và mùa thu năm đó, Clinton vẫn chưa thể hiện lập trường rõ ràng.

Vào tháng 1 năm 1994, một nghị quyết của Thượng viện do Kerry và McCain bảo trợ đã kêu gọi Tổng thống dỡ bỏ lệnh cấm vận. Một số cựu binh đã đứng ra tổ chức phản đối, với sự ủng hộ từ tổ chức American Legion và giới lãnh đạo đảng Cộng hòa. Việc McCain đồng bảo trợ nghị quyết đã thuyết phục được 20 Thượng nghị sĩ Cộng hòa bỏ phiếu ủng hộ, giúp nghị quyết được thông qua với tỷ lệ 62 phiếu thuận và 38 phiếu chống. McCain nói: “Cuộc bỏ phiếu này sẽ mang lại cho Tổng thống sự hậu thuẫn chính trị cần thiết để dỡ bỏ cấm vận”. Tuy nhiên, thực tế là sự hậu thuẫn thực sự cho Tổng thống đến từ Kerry và McCain. Một người đã trở thành biểu tượng cho quyết tâm đã quá muộn màng của chính phủ Mỹ trong việc nói lên sự thật về chiến tranh Việt Nam; người kia là anh hùng quân đội nay đã trở thành hình tượng của sự hàn gắn. Uy tín của cả hai người trong vấn đề này là không thể tranh cãi.

Ngày 4 tháng 2 năm 1994, một dòng tít trên tờ New York Times viết: “CLINTON DỠ BỎ LỆNH CẤM VẬN THƯƠNG MẠI 19 NĂM ĐỐI VỚI VIỆT NAM”. Ngay phía trên là bức ảnh gây ám ảnh nhất của cuộc chiến –hình ảnh cô bé trần truồng cùng các em nhỏ khác chạy về phía ống kính, bỏ chạy khỏi “một cuộc không kích bằng napalm năm 1972”, như chú thích ảnh đã ghi.

Ngày 11/7/1995, Tổng thống Bill Clinton tuyên bố bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Ảnh: Thư viện Tổng thống Clinton

Bob Dole, khi đó là lãnh đạo phe Cộng hòa, tuyên bố rằng việc dỡ bỏ lệnh cấm vận là “quyết định sai lầm vào thời điểm sai lầm vì lý do sai lầm”. Vào mùa xuân năm 1995, ông cùng Thượng nghị sĩ Phil Gramm của bang Texas giới thiệu một dự luật kêu gọi Tổng thống Clinton không nên thiết lập quan hệ ngoại giao đầy đủ với Việt Nam; họ muốn làm sống lại vấn đề 1.619 người Mỹ vẫn còn mất tích. Sau đó, vào ngày 23 tháng 5 năm 1995, Kerry và McCain gặp Tổng thống Clinton tại Phòng Bầu dục. Họ cùng nhau trình bày lập luận ủng hộ bình thường hóa quan hệ, chống lại ý kiến của Dole. McCain kết luận: “Thưa Tổng thống, giờ đây tôi không còn quan tâm ai đã ủng hộ chiến tranh và ai đã phản đối nó. Tôi đã mệt mỏi với việc mãi nhìn lại quá khứ trong giận dữ. Điều quan trọng bây giờ là chúng ta phải tiến về phía trước”. Clinton, người từng nổi tiếng với phát ngôn rằng ông “ghê tởm” cuộc chiến, giờ đây được một người anh hùng của cuộc chiến đó yêu cầu chấm dứt nó. Với những người có mặt, Clinton dường như xúc động trước lời nói của McCain. Ông cảm ơn McCain nhưng vẫn chưa đưa ra cam kết nào. Rồi, vào ngày 11 tháng 7 năm 1995, ông triệu tập các thành viên nội các, các tướng lĩnh quân đội cấp cao, lãnh đạo Quốc hội, lãnh đạo các hội cựu chiến binh và những người khác đến Nhà Trắng. Đứng vững vàng trên bục phát biểu, ông tuyên bố: “Hôm nay, tôi tuyên bố bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Việt Nam”. Sau một bài phát biểu ngắn, ông kết luận: “Khoảnh khắc này mang đến cho chúng ta cơ hội để hàn gắn những vết thương của chính mình. Chúng đã kháng cự thời gian quá lâu. Giờ đây, chúng ta có thể cùng tiến về một tương lai chung. Dù điều gì từng chia rẽ chúng ta, hãy để nó lại phía sau. Hãy để khoảnh khắc này, theo lời Kinh Thánh, là thời khắc để hàn gắn và thời khắc để xây dựng”. Sau đó, Bill Clinton lập tức quay sang người đứng bên cạnh – John McCain. Họ bắt tay rồi ôm nhau đầy xúc động. Tiếp theo, Tổng thống quay sang John Kerry.

Một năm sau, tổ chức học thuật nước ngoài độc lập duy nhất tại Việt Nam, trực thuộc Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh, là một dự án của Viện Phát triển Quốc tế Harvard và Hội đồng các Hội Khoa học Hoa Kỳ (American Council of Learned Societies). Nơi này có tên là Trung tâm Fulbright, được khánh thành vào tháng 11 năm 1995, bốn tháng sau khi hai nước bình thường hóa quan hệ. Trong dịp đó, Thomas Vallely, một cựu lính thủy đánh bộ từng chiến đấu ở Việt Nam năm 1969 và 1970, phát biểu trước khán giả: “Trung tâm giảng dạy này là món quà của nhân dân Mỹ dành tặng nhân dân Việt Nam, một món quà được hình thành từ ý tưởng của Thượng nghị sĩ John Kerry, đến từ tiểu bang Massachusetts”. Vallely cũng bày tỏ sự ghi nhận đối với John McCain: “Tôi nghĩ rằng nếu chúng ta có thể nghe thấy tiếng nói của những cựu binh Mỹ thầm lặng, những người có tên được khắc trên bức tường đá granite đen ở Washington, họ sẽ đồng tình với Thượng nghị sĩ McCain và nói rằng đã đến lúc người Mỹ nên tưởng nhớ những cựu binh thầm lặng của Việt Nam, và vươn tay hướng về Việt Nam bằng một nền hòa bình của những người dũng cảm”.

Năm 1994, Hoa Kỳ xếp thứ 14 trong số các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Một năm sau, Hoa Kỳ đứng thứ 6. Ngày nay, tại Hà Nội, nhà tù Hỏa Lò không còn nữa. Nó đã bị phá dỡ để nhường chỗ cho một khu phức hợp khách sạn – một cơ sở trở nên cần thiết một phần vì có rất nhiều cựu binh Mỹ bắt đầu quay lại Việt Nam. Ông Lê Văn Bàng, người được chỉ định làm Đại sứ Việt Nam tại Hoa Kỳ, nói với tôi: “Các cựu binh Mỹ đang quay trở lại Việt Nam. Chúng tôi hiểu lý do họ trở lại, và chúng tôi hoan nghênh họ”.

Nơi từng là cơn ác mộng khiến nước Mỹ mãi không thể tỉnh giấc nay đang trở thành nơi du khách nghỉ lại; và tình bạn kỳ lạ giữa hai chính khách Mỹ đã biến điều đó thành hiện thực. “John Kerry và John McCain đã làm một việc đầy ý nghĩa và cao cả cho đất nước”, Thượng nghị sĩ Kennedy nói với tôi. “Tôi biết những lời như vậy giờ không còn khiến ai xúc động nữa, nhưng đó là sự thật, một đóng góp cao quý”. Ở Việt Nam, họ được kính trọng như những người đã khép lại cuộc chiến. Và biểu tượng mạnh mẽ nhất của một kỷ nguyên mới chính là sự thay đổi của Hanoi Hilton (biệt danh nhà tù Hỏa Lò). Còn về khách sạn thay thế nhà tù, McCain kể với tôi: “Khi tôi nhìn thấy nó, họ hỏi tôi nghĩ gì. Tôi nói, ‘Tôi chỉ hy vọng dịch vụ phòng lần này tốt hơn hồi tôi ở đây’.”■


[1] Lễ Chiến sĩ Trận vong (Memorial Day) là một ngày lễ liên bang tại Hoa Kỳ, diễn ra vào ngày thứ Hai cuối cùng của tháng 5 hằng năm, để tưởng nhớ và vinh danh những quân nhân Hoa Kỳ đã tử nạn trong quân ngũ. (ND)

[2] Khoảng 2,7-3 mét x 2 mét. (ND)

[3] Keating Five là nhóm gồm năm thượng nghị sĩ Mỹ bị cáo buộc giúp đỡ Charles Keating, một doanh nhân dính líu đến vụ bê bối tài chính lớn vào cuối những năm 1980. (ND)

[4] Ross Perot là một doanh nhân và chính trị gia nổi tiếng ở Mỹ, từng tài trợ và hỗ trợ một số hoạt động tìm kiếm tù binh Mỹ còn mất tích sau chiến tranh Việt Nam. (ND)

[5] Một số chính trị gia Mỹ đeo vòng tay có khắc tên những người lính mất tích hoặc bị bắt làm tù binh trong Chiến tranh Việt Nam để thể hiện lòng biết ơn, tưởng nhớ và quyết tâm đưa họ trở về quê nhà. (ND)

[6] Giống như POW, PW là viết tắt của cụm từ “Prisoner of War”, nghĩa là tù binh chiến tranh. Songbird nghĩa đen là chim hót, nhưng trong bối cảnh chiến tranh, đặc biệt là trong Chiến tranh Việt Nam, “songbird” đã trở thành một biệt danh mang tính sỉ nhục, ám chỉ những người bị cho là đã hợp tác với kẻ thù hoặc làm việc tuyên truyền cho phía đối phương. (ND)

[7] Tên gọi một lực lượng đặc nhiệm của Quân đội Mỹ, xuất phát từ chiếc mũ beret màu xanh lá cây của họ. Lực lượng Green Beret thực hiện các nhiệm vụ đặc biệt như chiến tranh du kích, huấn luyện và hỗ trợ quân đội nước ngoài, tình báo và chống khủng bố. (ND)

[8] Cụm từ chỉ một người bị điều khiển hoặc thao túng bởi một lực lượng ngoại quốc. (ND)

Blog tư liệu Tags:Bình thường hóa, Chiến tranh Việt Nam, ngoại giao, POW/MIA, Quan hệ Việt - Mỹ, Việt Nam thời hậu chiến, Việt Nam trên báo Mỹ, Vietnam War

Post navigation

Previous Post: 50 năm sau khi Sài Gòn thất thủ: Hồi tưởng của Nayan Chanda
Next Post: Nhà báo Anh thuật lại cuộc gặp với Chủ tịch Hồ Chí Minh và Thủ tướng Phạm Văn Đồng năm 1965

More Related Articles

Tài liệu giải mật: Các cuộc họp bên lề Hội nghị Geneva 1954 Blog tư liệu
Phản ứng và lý lẽ của người Mỹ sau sự sụp đổ của chính quyền Sài Gòn tháng 4/1975 Blog tư liệu
Những cuộc thăm dò hòa bình: Vũ điệu mong manh dưới bảy lớp màn che Blog tư liệu
50 năm sau khi Sài Gòn thất thủ: Hồi tưởng của Nayan Chanda Blog tư liệu
Diễn văn đối ngoại của Tổng thống Ford về Việt Nam và Campuchia Blog tư liệu
Một tình huống quân sự đặc biệt éo le: Khi lính Mỹ phản chiến Blog tư liệu

Leave a Reply Cancel reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

  • Tạp chí Phương Đông Official Channel
  • Thư viện Nguyễn Văn Hưởng Fanpage
Tạp chí Phương Đông số tháng 10-2024

Chuyên đề

  • Việt Nam trên báo Mỹ
  • Tạp chí Phương Đông

Kết nối với chúng tôi

Nguồn tài liệu

  • The Vietnam Center and Sam Johnson Vietnam Archive
  • MSU Vietnam Group Archive
  • The Wilson Center Digital Archive
  • The National Security Archive
  • CIA Historical Collections
  • Office of the Historian – U.S. Department of State
  • National Archives
  • Internet Archive
  • United Nations Archives
  • Journal of Vietnamese Studies
  • Harvard-Yenching Library
  • Yale University Digital Collections: Maurice Durand Han Nom
  • Digital Libraries – Gallica – BnF
  • Les Archives nationales d’outre-mer
  • Bulletin de l’École française d’Extrême-Orient
  • Sách Đông Dương – Thư viện QGVN
  • Thư tịch Hán Nôm – Thư viện QGVN
  • Báo chí số hóa – Thư viện QGVN

Bài mới

  • Trang phục người dân An Nam
  • Hội thi bơi trải ở ngã ba Bạch Hạc
  • Ngựa và voi trong tín ngưỡng của người An Nam
  • Nhà báo Anh thuật lại cuộc gặp với Chủ tịch Hồ Chí Minh và Thủ tướng Phạm Văn Đồng năm 1965
  • Kerry – McCain: Một tình bạn khép lại cuộc chiến

Lưu trữ

TRƯNG BÀY KỶ VẬT CHIẾN SĨ

Tags

1945 1954 1975 Bảo Đại Báo chí Chiến tranh Việt Nam Chiến tranh Đông Dương chế độ thực dân chủ nghĩa thực dân Chủ tịch Hồ Chí Minh CIA Cách mạng Tháng Tám giới thiệu sách Hoa Kỳ Huế Hồ Chí Minh Hà Nội Mỹ nghệ thuật ngoại giao Ngô Đình Diệm Ngô Đình Nhu Nhật phong trào phản chiến phong tục phản chiến Pháp POW/MIA Quan hệ Việt - Mỹ Sài Gòn thuộc địa Thập niên 1960 Thực dân Pháp triều Nguyễn Tết tình báo Vietnam War Việt Minh Việt Nam Cộng hòa Việt Nam thời hậu chiến Việt Nam trên báo Mỹ văn hóa Đảo chính Đông Dương Đông Nam Á

Đăng ký

  • ĐĂNG KÝ LÀM THẺ
  • ĐĂNG KÝ TẢI TÀI LIỆU SỐ
  • Pol Pot: Mổ xẻ một cơn ác mộng Xuất bản
  • Cuộc chiến của tôi với CIA: Hồi ký của Hoàng thân Norodom Sihanouk Xuất bản
  • Một góc nhìn thời cuộc Xuất bản
  • Chợ Lớn 1955: Ký và họa Xuất bản
  • Những biên bản cuối cùng tại Nhà Trắng: Phút sụp đổ của Việt Nam Cộng Hòa Xuất bản
  • Thế giới đang thay đổi – Trật tự đa cực xuất hiện Xuất bản
  • Chuyến thăm Hà Nội Xuất bản
  • Nước Nga trong thế giới đa cực Xuất bản
  • Con đường thiên lý: Hành trình kỳ lạ của các sứ bộ Anh Quốc tới Việt Nam thế kỷ 17 – 19 Xuất bản
  • Thắng địa Thăng Long – Địa linh đất Việt Xuất bản
  • Nước mắt mùa thu Xuất bản
  • Miền đất vàng Đông Dương Xuất bản
  • Đối thoại với các phái đoàn Hoa Kỳ Xuất bản
  • Biển Đông – Nhìn từ góc độ lịch sử và pháp lý Xuất bản
  • Giải phóng Xuất bản

Copyright © 2025 Thư viện Nguyễn Văn Hưởng.