Skip to content
  • ĐĂNG KÝ LÀM THẺ
  • ĐĂNG KÝ TẢI TÀI LIỆU SỐ
Thư viện Nguyễn Văn Hưởng

Thư viện Nguyễn Văn Hưởng

CỔNG THÔNG TIN – NVH LIBRARY'S PORTAL

  • Trang chủ
  • Giới thiệu
    • Giới thiệu thư viện
    • Đội ngũ nhân sự
    • Liên hệ
    • Báo chí
    • Tuyển dụng
  • Dịch vụ thư viện
    • Câu hỏi thường gặp
    • Bảng giá dịch vụ
    • Đăng ký làm thẻ
    • Đăng ký tài khoản Thư viện số
  • Tài nguyên
    • Blog tư liệu
    • Xuất bản
    • Tin tức
  • Danh mục sách
  • Thư viện số
  • Trưng bày trực tuyến
  • Toggle search form
  • Con đường thiên lý và lịch sử kết nối Anh – Việt Nam thời cận đại Báo chí
  • 7, 8, 9 điểm hòa bình Blog tư liệu
  • Bàn về đọc sách Blog tư liệu
  • Giới thiệu sách: Vietnamese colonial republican: The political vision of Vu Trong Phung Blog tư liệu
  • Mỹ can thiệp vào Hội nghị Geneva năm 1954 như thế nào? Blog tư liệu
  • Ngày 9/10/1954, Quân đội nhân dân Việt Nam đã tiếp thu hoàn toàn Thủ đô Hà Nội Blog tư liệu
  • Dịch vụ thư tín của người An Nam xưa Blog tư liệu
  • Mệ Bông: Những ký ức về cung đình xưa Blog tư liệu
  • Quang cảnh Hà Nội cuối thế kỷ 19 Blog tư liệu
  • Bài trí đầy tinh thần mến khách cho đàm phán hòa bình Việt Nam Blog tư liệu
  • Phụ nữ Tây Phương nhìn phụ nữ Việt Nam 100 năm trước (Kỳ 1) Blog tư liệu
  • Giới thiệu sách: The South China Sea: A Crucible of Regional Cooperation or Conflict-making Sovereignty Claims? Blog tư liệu
  • Năm con rắn 1953 Blog tư liệu
  • Nguồn vui đã trở về với ngoại thành Hà Nội Blog tư liệu
  • Tháng 4 năm 1975 đầy ám ảnh qua hồi ức của nhân viên CIA Blog tư liệu

Hà Nội tháng Ba năm 1967

Posted on 13/03/2024 By editor No Comments on Hà Nội tháng Ba năm 1967

Mary McCarthy

Trần Hà dịch

Tháng Ba năm 1967, Mary McCarthy, nhà văn và nhà hoạt động chính trị Mỹ, thăm Việt Nam. Trở về nước, bà đã viết cuốn “Hà Nội”, bày tỏ ấn tượng tốt về đất nước và con người Việt Nam. Để bạn đọc hiểu thêm cách nhìn của người Mỹ đối với Việt Nam thời chiến tranh, Tạp chí Phương Đông xin trích dịch một phần cuốn sách đó.

*

Bìa sách Hanoi của tác giả Mary McCarthy

Hoàn toàn trái ngược với Sài Gòn, Hà Nội sạch, sạch hơn nhiều so với New York chẳng hạn. Vỉa hè được quét sạch, không có rác chất đống và mỗi sáng lại có xe phun nước, rửa phố. Trong sảnh khách sạn hơi tối, phóng viên nước ngoài ngồi thảo luận với phiên dịch như thân chủ thì thầm với luật sư của mình ở ghế băng trong phòng xử án. Bàn ghế cũ thoang thoảng mùi dầu đánh bóng. Nhiều khăn mặt cũ treo trong buồng tắm cứng ráp vì giặt nhiều lần trong nước lạnh và rất có thể giặt bằng xà phòng thô. Việc vệ sinh hầu như đều được mọi người tôn thờ với thái độ hăng hái chính trị: dọn sạch mọi thứ. Ở Hà Nội, không có nạn mãi dâm trên đường phố (họ cho biết gái mãi dâm đã được cải tạo), không có trẻ em với những vết lở loét và ăn mày mặc quần áo rách nát. Hiếm khi thấy trẻ em có bộ mặt lem luốc, nhưng ngay cả việc nhìn thấy trẻ em cũng tương đối hiếm rồi. Hầu hết trẻ em đều sơ tán về vùng nông thôn và thường thì đến cuối tuần bố mẹ lại đi thăm con.

Những động vật hoang dã như sư tử hay hổ cũng đi sơ tán hoặc được thả về rừng. Theo một hãng tin phương Tây, nền kinh tế phân phối chặt chẽ bằng tem phiếu không thể cung cấp đủ thịt tươi để nuôi chúng. Đây là tin tốt cho Lầu Năm góc vì nếu đúng thì điều này chứng minh rằng chiến tranh đang gây ra “nỗi đau”. Ông Phan thuộc Ủy ban Hòa bình lại đưa ra một câu chuyện khác. Ông nói rằng họ phải chuyển các động vật nguy hiểm ra khỏi Hà Nội phòng khi cuộc tấn công bằng máy bay phá hỏng cũi và để chúng sổng ra đường phố. Tôi thích lời giải thích của ông Phan hơn, nhất là khi ông kể lại với đôi mắt mở to. Câu chuyện của ông có phần vui vẻ, nhất là với trẻ em, khi chúng ta nghĩ đến cảnh con voi trốn khỏi rạp xiếc. Tuy nhiên, cũng như việc cất giấu tranh trong bảo tàng, mọi thành phố bị ném bom đều phải đối mặt với vấn đề này. Trong Chiến tranh Thế giới thứ Hai, điều gì đã xảy ra với các con vật ở Vườn bách thú London? Họ giấu chúng ở đâu?

Phố Tràng Tiền, tháng 11/1967. Ảnh: Amando Doronila

Điều mà ta không nghĩ đến là Hải quân hay Không quân Mỹ lại tính đến việc ném bom vườn bách thú. Trại phong Quỳnh Lập bị ném bom không chỉ một lần. Một lần thì có thể là sự việc ngoài tính toán, nhưng bị ném bom 39 lần thì khác. Tôi đã thấy ảnh chụp cảnh tượng lộn xộn với bác sĩ, y tá hoặc công nhân khênh cáng cố đưa bệnh nhân chân chỉ còn một cục và tay sưng vù đến nơi an toàn. 160 ngôi nhà, nơi ở của 2.000 người bị bệnh phong, bị phá hủy nặng nề (tôi phải xin lỗi vì đã dùng con số thống kê của Bắc Việt Nam, nhưng nước Mỹ chúng ta không cung cấp số liệu nào cả). Cuộc tấn công đầu tiên làm 123 người thiệt mạng, và người ta cho rằng con số này bao gồm cả những người bị súng máy bắn chết khi họ tìm cách chạy khỏi trại. Người Mỹ phản đối: “Thế thì mục đích của các cuộc tấn công là gì? Ném bom một trại phong để làm gì?” Tôi không biết mục đích là gì nhưng tôi biết kết quả của những cuộc ném bom đó: những bệnh nhân phong sống sót phải quay trở về sống ở bệnh viện bình thường của huyện hay tỉnh. Ở những bệnh viện này, bệnh nhân phong ít ra cũng là một vấn đề, là mối đe dọa đối với sức khỏe của cộng đồng. Nếu bạn ném bom bệnh nhân phong thì tại sao lại không ném bom sư tử và hổ vì chúng cũng là mối đe dọa không kém.

Không như vườn bách thú mất một nửa, chỉ còn những con vật ăn cỏ yên bình, thành phố Hà Nội bày tỏ lòng nhiệt huyết của mình khắp mọi nơi. Ngoài hầm trú ẩn, súng phòng không, bảng thông báo số máy bay bị bắn rơi, xe tải quân đội, học sinh mặc đồng phục, còn có tranh áp phích lớn về cuộc chiến, ảnh anh hùng Mặt trận Giải phóng, và băng rôn khẩu hiệu. Sự kiện thu hút nhất ở rạp chiếu phim là bộ phim về nữ anh hùng ở cầu Hàm Rồng, một cô gái đẹp là đội trưởng một đơn vị dân quân ở tỉnh Thanh Hóa. Hình của cô dân quân này, đầu đội mũ và vai đeo súng trường, được vẽ trên những tấm quảng cáo khổ rộng.

Hà Nội, tháng 3/1970. Ảnh: Alma De Luce

Ngay cả trước cuộc chiến tranh trên không, một số nhà văn đã mô tả Hà Nội là một thành phố ảm đạm và điều này cũng đúng ở thời điểm hiện tại và đặc biệt đúng với khu phố cổ, nơi ta không thể thấy màu sắc gì. Ở đó hầu như không có gì để mua, trừ một số vật dụng hàng ngày theo đúng nghĩa của nó, thí dụ như đèn pin, phích nước, xe đạp cũ và phụ tùng xe đạp. Nhiều cửa hàng đóng cửa. Những hoạt động kinh doanh chính của thành phố có vẻ như là cắt tóc và sửa xe đạp. Tên phố Hàng Đào (phố lụa) làm người qua lại cảm thấy không thể chấp nhận được. Ở Hưng Yên vẫn còn dâu và tằm, nhưng sản phẩm dâu tằm có lẽ để xuất khẩu. Quần áo bằng vải bông và khăn trải bàn do các hợp tác xã sản xuất được bán ở cửa hàng bách hóa nhà nước. Cũng như ở các nước cộng sản khác, sách có giá rẻ, nhưng các cửa hàng sách ở Hà Nội hầu như chỉ bày bán sách giáo khoa đủ các lĩnh vực, khoa học, kỹ thuật, chính trị. Hầu như không có sách văn học hay thơ ca và nếu có thì cũng là loại tôn thờ đạo đức hay lòng yêu nước. Có rất ít bản dịch sách cổ điển, trừ sách của Mác và Ăng-gen. Bản dịch sách của các tác giả Âu Mỹ, như ở các nước công nghiệp phát triển như Ba Lan, Tiệp Khắc, Nam Tư, vẫn là giấc mơ ở Hà Nội. “Chúng tôi đã bắt đầu dịch các tác giả tiến bộ như Jack London và Mark Twain”.

Trên đường phố, người dân hầu hết đi xe đạp, mặc quần áo màu dịu: quần đen, áo sơ mi trắng, áo khoác màu ka-ki, xám hay xanh sẫm. Một vài chiếc xích-lô, tàn dư của chế độ bất công, vẫn được sử dụng để chở hàng, nhưng đôi khi ta vẫn thấy có hành khách trên xe. Tà áo dài xuyên thấu quyến rũ, áo bình thường của phụ nữ ở miền Nam, được các diễn viên mặc khi biểu diễn hay công nhân kiểu mẫu mặc vào dịp chào đón ai đó. Điều ngạc nhiên là khi thăm nhà máy điện, bạn lại được một nhóm thanh nữ môi son, mặc áo dài màu sáng đeo nơ đỏ, chào đón bằng những bó hoa lay-ơn, làm bạn nhớ lại nước Mỹ những năm 1920. Tập trung ở cổng nhà máy, nhóm thanh nữ má hồng nhìn như những cô dâu đi từ nhà thờ ra. Thông thường phụ nữ không trang điểm gì và nét màu duy nhất trên xe đạp là màu áo mưa, thường là xanh trứng sáo hoặc hồng. Khi chiến tranh trên không bắt đầu, mọi người không dùng ô nữa mặc dù mùa đông mưa nhiều. Chiếc ô của tôi thu hút sự chú ý và tôi bắt đầu cảm thấy khó chịu như thể đó là chiếc dù to. Khi không phải mặc trang phục làm việc, đàn ông Hà Nội mặc com-plê phương Tây, áo trắng và đeo cra-vát.

Người Hà Nội trong hầm tránh bom, ngày 5/7/1967. Ảnh: Hulton-Deutsch Collection/CORBIS

Ngày 28 tháng Ba, tôi xem thợ sửa chữa mái nhà thờ ở quận Hai Bà Trưng. Ngôi nhà thờ bị đánh bom lúc 19 giờ 30 ngày 8 tháng Ba. Các giáo dân đang làm lễ tối khi nghe thấy thông báo báo động qua loa đặt ngay ngoài nhà thờ. Máy bay cách Hà Nội 40 ki-lô-mét. Cha ra lệnh giải tán, không ai bị thương trừ những bức tượng trên bàn thờ và dọc theo tường. Tôi được cho biết 18 quả bom đã được thả xuống ngôi làng Thiên Chúa giáo này. Đây là ngôi làng cách xa đường chính và xa mục tiêu quân sự có thể thấy được. Những người làm lễ tại nhà thờ đã gặp may. Cả làng có tám người chết và tám người bị thương, 15 ngôi nhà bị phá sập. Đống đổ nát đã được dọn dẹp trừ một chiếc cũi trẻ con. Hố bom cũng được san lấp và cây được trồng lại, khách đến thăm không thể đoán được điều gì đã xảy ra trừ khi đã xem trước ảnh ở Ủy ban Tội ác Chiến tranh.

Ở trung tâm Hà Nội, máy bay đã tấn công vào hai khu dân cư đông dân vào tháng Tám và tháng Mười năm ngoái (mục tiêu “công nghiệp” là cửa hàng bán đồ sắt và cửa hàng sửa chữa xe đạp). Tôi đứng giữa đống đổ nát đầy lò xo vặn vẹo và hướng dẫn viên chỉ cho tôi xem một ngôi nhà bị phá một phần đã được xây sửa lại, trông cũng không có gì mới hơn những ngôi nhà không bị bom phá. Ở đây không có gì được làm mới cả. Một mái nhà nhỏ hay một mảng tường được vội vàng dựng lên trên khu phố đã cũ kỹ của thành phố.

Mặc dù có nhiều cây lớn sum suê, hồ và vườn hoa, ngay cả trong thời bình, Hà Nội chắc chắn là một thành phố tẻ nhạt – khác với thủ đô một số nước cộng sản phương Tây có nhiều danh lam thắng cảnh thu hút khách du lịch như cung điện được phục chế, nhà thờ lấp lánh được xây lại, khu chợ đầy cảnh đẹp, những cô gái xinh đẹp mặc váy ngắn, cửa hàng đầy thảm dệt tay được thiết kế tỉ mỉ… Điều khác biệt là tính chiến đấu và ánh mắt rực lửa của người dân. Có vẻ như mục tiêu đuổi giặc ngoại xâm sống động hơn công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ở Hà Nội, bạn không thấy những người mất tinh thần như trong những đám đông ở Đông Âu, ở đây ai cũng vội vã. Chắc chắn sẽ có những người bất bình, những người hay phàn nàn, nhưng họ ở đâu? Không thể có quy định của chính phủ buộc họ ở trong nhà được. Tuy nhiên, ở mọi nơi tôi đến, tôi đều gặp nụ cười, niềm vui và tiếng vỗ tay. Người qua đường dừng lại và vẫy tay chào bạn. Đúng thật, ở những tỉnh nghèo và “không phát triển” đôi khi bạn bắt gặp những người nông dân nhiều tuổi mặc quần áo đen với nét mặt giận dữ và cứng rắn. Như những người không chịu chào cờ, họ không ngẩng mặt lên khi bạn đi qua và chào họ. Nhưng đây cũng là thường tình vì đồng thuận sẽ là điều rất bất bình thường.

Ở Hà Nội, vì chiến tranh nên dân cư đi làm từ 6 giờ sáng. Cửa hàng mở cửa từ 5 hoặc thậm chí là 4 giờ. Hầu như không ai ăn ở nhà hay nhà hàng, mà thường ăn ở căng-tin của cơ quan, trả bằng tem phiếu.

Một điều dễ thấy là cuộc sống ở Hà Nội khắc khổ và căng thẳng, mặc dù mọi người đều cố gắng giảm bớt căng thẳng cho khách nước ngoài, những người thường bị coi là yếu đuối hơn. Họ luôn xin lỗi khách vì báo động gây bất tiện. Tôi cho rằng đây là cử chỉ cẩn thận thái quá với khách người Mỹ. Họ luôn thăm hỏi khách ngủ thế nào, có mệt hay không. Đi thăm hiện trường vụ ném bom buộc tôi phải dậy lúc 7 giờ sáng, họ xin lỗi: “Tôi rất xin lỗi nhưng khởi hành sớm thì an toàn hơn”. Họ nói với tôi máy bay rất ít khi hoạt động trước 9 giờ sáng. “Có phải vì phi công phải ăn sáng không?”, tôi hỏi đùa. Họ trả lời: “Chúng tôi không thể giải thích được, nhưng chúng tôi quan sát như vậy”. Quả thật, điều này có vẻ đúng cả ở nông thôn và thành thị. Sổ của tôi chỉ ghi lại một lần báo động vào lúc 5h45 phút ngày 21 tháng Ba.■

Blog tư liệu Tags:Chiến tranh Việt Nam, giới thiệu sách, Hà Nội

Post navigation

Previous Post: Chuyến thăm Hà Nội
Next Post: Bà Trần Lệ Xuân và vấn đề nữ quyền ở miền Nam Việt Nam

More Related Articles

Người tị nạn: Sự tiếp đón lạnh lùng và thận trọng Blog tư liệu
Ngày Johny về trong khúc quân hành – hay chẳng bao giờ về nữa Blog tư liệu
50 năm sau khi Sài Gòn thất thủ: Hồi tưởng của Nayan Chanda Blog tư liệu
“Tôi từ bỏ”: Hồi ký của một anh hùng Lực lượng đặc nhiệm Mỹ “vỡ mộng” sau khi từ Việt Nam trở về Blog tư liệu
Ý nghĩa việc thiên đô của Lý Thái Tổ trong lịch sử Việt Nam Blog tư liệu
Nỗi sợ hòa bình ở một Sài Gòn bị chia rẽ Blog tư liệu

Leave a Reply Cancel reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

  • Tạp chí Phương Đông Official Channel
  • Thư viện Nguyễn Văn Hưởng Fanpage
Tạp chí Phương Đông số tháng 10-2024

Chuyên đề

  • Việt Nam trên báo Mỹ
  • Tạp chí Phương Đông

Kết nối với chúng tôi

Nguồn tài liệu

  • The Vietnam Center and Sam Johnson Vietnam Archive
  • MSU Vietnam Group Archive
  • The Wilson Center Digital Archive
  • The National Security Archive
  • CIA Historical Collections
  • Office of the Historian – U.S. Department of State
  • National Archives
  • Internet Archive
  • United Nations Archives
  • Journal of Vietnamese Studies
  • Harvard-Yenching Library
  • Yale University Digital Collections: Maurice Durand Han Nom
  • Digital Libraries – Gallica – BnF
  • Les Archives nationales d’outre-mer
  • Bulletin de l’École française d’Extrême-Orient
  • Sách Đông Dương – Thư viện QGVN
  • Thư tịch Hán Nôm – Thư viện QGVN
  • Báo chí số hóa – Thư viện QGVN

Bài mới

  • Đông Dương quanh co (Kỳ 2: Từ Sài Gòn tới Đà Lạt)
  • Giáo dục dưới thời Toàn quyền Albert Sarraut và Martial Merlin
  • Mặt trận phản chiến bên trong nước Mỹ
  • Cuộc chiến “châu chấu đá voi” ở Việt Nam
  • Hoạt động tình báo ở các đô thị Việt Nam bị địch tạm chiếm giai đoạn 1945 – 1954

Lưu trữ

TRƯNG BÀY KỶ VẬT CHIẾN SĨ

Tags

1945 1954 1975 Bảo Đại Báo chí Campuchia Chiến tranh Việt Nam Chiến tranh Đông Dương chế độ thực dân chủ nghĩa thực dân Chủ tịch Hồ Chí Minh CIA Cách mạng Tháng Tám giới thiệu sách Hoa Kỳ Huế Hồ Chí Minh Hà Nội Mỹ nghệ thuật ngoại giao Ngô Đình Diệm Ngô Đình Nhu phong trào phản chiến phong tục phản chiến Pháp POW/MIA Quan hệ Việt - Mỹ Sài Gòn thuộc địa Thập niên 1960 Thực dân Pháp triều Nguyễn Tết tình báo Vietnam War Việt Minh Việt Nam Cộng hòa Việt Nam thời hậu chiến Việt Nam trên báo Mỹ văn hóa Đảo chính Đông Dương Đông Nam Á

Đăng ký

  • ĐĂNG KÝ LÀM THẺ
  • ĐĂNG KÝ TẢI TÀI LIỆU SỐ
  • Đối thoại với các phái đoàn Hoa Kỳ Xuất bản
  • Nước Nga trong thế giới đa cực Xuất bản
  • Giải phóng Xuất bản
  • Một góc nhìn thời cuộc Xuất bản
  • Miền đất vàng Đông Dương Xuất bản
  • Thế giới đang thay đổi – Trật tự đa cực xuất hiện Xuất bản
  • Chuyến thăm Hà Nội Xuất bản
  • Chợ Lớn 1955: Ký và họa Xuất bản
  • Cuộc chiến của tôi với CIA: Hồi ký của Hoàng thân Norodom Sihanouk Xuất bản
  • Nước mắt mùa thu Xuất bản
  • Biển Đông – Nhìn từ góc độ lịch sử và pháp lý Xuất bản
  • Những biên bản cuối cùng tại Nhà Trắng: Phút sụp đổ của Việt Nam Cộng Hòa Xuất bản
  • Thắng địa Thăng Long – Địa linh đất Việt Xuất bản
  • Pol Pot: Mổ xẻ một cơn ác mộng Xuất bản
  • Con đường thiên lý: Hành trình kỳ lạ của các sứ bộ Anh Quốc tới Việt Nam thế kỷ 17 – 19 Xuất bản

Copyright © 2025 Thư viện Nguyễn Văn Hưởng.