Skip to content
  • Trang chủ
  • Giới thiệu
  • Dịch vụ thư viện
  • Nghiên cứu
  • Danh mục sách
  • Thư viện số
  • DANH MỤC SÁCH
  • THƯ VIỆN SỐ
Thư viện Nguyễn Văn Hưởng

Thư viện Nguyễn Văn Hưởng

CỔNG THÔNG TIN – NVH LIBRARY'S PORTAL

  • Trang chủ
  • Giới thiệu
    • Giới thiệu thư viện
    • Đội ngũ nhân sự
    • Tuyển dụng
    • Liên hệ
  • Dịch vụ thư viện
    • Câu hỏi thường gặp
    • Bảng giá dịch vụ
  • Nghiên cứu
    • Blog tư liệu
    • Xuất bản
    • Tài nguyên
    • Tin tức
  • Danh mục sách
  • Thư viện số
  • Toggle search form
  • Nước mắt mùa thu Xuất bản
  • Thắng địa Thăng Long – Địa linh đất Việt Xuất bản
  • Cuộc chiến của tôi với CIA: Hồi ký của Hoàng thân Norodom Sihanouk Xuất bản
  • Những biên bản cuối cùng tại Nhà Trắng: Phút sụp đổ của Việt Nam Cộng Hòa Xuất bản
  • Biển Đông – Nhìn từ góc độ lịch sử và pháp lý Xuất bản
  • Chợ Lớn 1955: Ký và họa Xuất bản
  • Giải phóng Xuất bản
  • Pol Pot: Mổ xẻ một cơn ác mộng Xuất bản

Cựu binh Mỹ trở về từ Việt Nam: Chiến đấu để rồi bị bỏ mặc

Posted on 13/12/202213/12/2022 By editor No Comments on Cựu binh Mỹ trở về từ Việt Nam: Chiến đấu để rồi bị bỏ mặc

Bài: Charles Childs | Ảnh: Co Rentmeester

Thanh Trà lược dịch

Đã có nhiều bằng chứng và nghiên cứu cho thấy sau khi trở về từ Việt Nam, các cựu binh Mỹ không những mang theo những vết thương về thể xác và tinh thần, mà còn phải chịu sự thờ ơ, thậm chí kỳ thị ngay trên chính quê hương họ, xuất phát từ tâm lý phản chiến của người dân. Về mặt chính sách phúc lợi, họ cũng không được hưởng những lợi ích như chính phủ Mỹ đã hứa hẹn. Nhiều người phải sống trong cảnh bệnh tật, thất nghiệp và nghèo túng.

Phóng sự ảnh của Charles Childs và Corentmeester đăng trên Tạp chí Life số ra ngày 22/5/1970 đã đem lại cho công chúng một cái nhìn về tình cảnh “sống dở chết dở” của các cựu binh Mỹ trong các bệnh viện dành riêng cho cựu chiến binh, mà chính các bác sĩ ở đây miêu tả là “bẩn thỉu” và “như thời trung cổ”. Theo các tác giả, trong khi chính phủ Mỹ đổ nguồn lực khổng lồ vào cuộc chiến ở Việt Nam, ngân sách y tế dành cho cựu binh Mỹ lại khiêm tốn và còn bị cắt giảm.

Tạp chí Phương Đông lược dịch và giới thiệu với bạn đọc phóng sự này.

***

Tính đến nay[1] đã có 275.000 lính Mỹ bị thương ở Việt Nam, chưa kể những người tử trận. Một người lính bị thương ở Việt Nam có cơ hội sống sót cao gấp đôi so với ở Hàn Quốc và trong Thế chiến II, bởi các đội trực thăng sơ tán những người bị thương nhanh hơn, thường chỉ trong vài phút, còn các bệnh viện dã chiến có thể khéo léo chữa lành những vết thương ở mức độ nghiêm trọng chưa từng có. Nhưng sau khi đã được cứu sống bởi hệ thống y tế dã chiến tốt nhất trong lịch sử, và được điều trị ban đầu trong những cơ sở quân sự hạng nhất, cứ bảy quân nhân Mỹ bị thương ở Việt Nam thì có một người sẽ phải nằm trong các bệnh viện ảm đạm, tù túng của Cơ quan Đặc trách Cựu chiến binh Hoa Kỳ.

Với 166 cơ sở riêng biệt, đây là hệ thống bệnh viện cựu chiến binh lớn nhất thế giới. Mỗi năm có khoảng 800.000 bệnh nhân được điều trị ở đây, chủ yếu là binh lính với các chấn thương từ tim cho đến tâm thần. Tuy nhiên, điều đáng hổ thẹn là hệ thống này lại thiếu nhân viên, với các tiêu chuẩn thấp hơn nhiều so với một bệnh viện cộng đồng bình thường. Nhiều khoa phải đóng cửa vì thiếu nhân sự, và số còn lại đang căng thẳng vì quá tải. Cơ sở vật chất để điều trị và phục hồi chức năng lâu dài, vốn là những điều kiện thiết yếu để điều trị các loại thương tật đặc biệt phổ biến trong chiến tranh, nói chung là kém. Tại bệnh viện cựu chiến binh ở Miami, bệnh nhân có thể phải chờ hàng giờ để được truyền máu, trong khi các thiết bị hiện đại nằm đắp chiếu do thiếu nhân viên được đào tạo. Tại bệnh viện kiểu mẫu của Cơ quan Đặc trách Cựu chiến binh ở Thủ đô Washington, một y tá có thể phải chăm sóc 80 bệnh nhân cùng lúc. Tại Bệnh viện cựu chiến binh Wadsworth ở Los Angeles, các bác sĩ làm việc ở đây mô tả tình trạng bệnh viện là “bẩn thỉu” và “như thời trung cổ”.

Trong một phòng bệnh ở Bệnh viện cựu chiến binh Bronx, một đống chăn ga bẩn lộn xộn được xếp cạnh giường của một cựu binh bị liệt toàn thân, trong khi người này nằm trần truồng, không thể tự mặc đồ sau khi tắm xong.

Giám đốc Cơ quan Đặc trách Cựu chiến binh Donald E. Johnson khẳng định công khai rằng các cựu chiến binh nhận được “sự chăm sóc hàng đầu”. Nhưng phần lớn bằng chứng đã chống lại tuyên bố đó. Một cuộc điều tra kéo dài 5 tháng của một tiểu ban ở Thượng viện do Alan Cranston của California chủ trì đã ghi lại những bất cập nghiêm trọng và chỉ ra nguyên nhân chính là do một loạt các khoản cắt giảm trong ngân sách y tế của Cơ quan Đặc trách Cựu chiến binh. Ngân sách này hiện vào khoảng 1,6 tỷ đô la một năm, gần bằng phí tổn cho một tháng chiến đấu ở Việt Nam. Các khoản trích lập bổ sung trị giá 122 triệu đô la cho năm tới đang chờ Quốc hội thông qua và có thể giúp xoa dịu cuộc khủng hoảng này. Nhưng trong vòng 12 tháng tới, các bệnh viện cựu chiến binh dự kiến ​​sẽ đón thêm 16.000 lính bị thương trở về từ Việt Nam.

Một thương binh Mỹ đang giúp đắp chăn cho một đồng đội bị liệt toàn thân. Tình trạng thiếu nhân viên y tế là vấn đề nghiêm trọng nhất của bệnh viện cựu chiến binh Bronx.

Câu chuyện của một cựu binh Mỹ

Vòng vây tại Khe Sanh đã được dỡ bỏ và lính thủy đánh bộ Marke Dumpert quay trở lại Quảng Trị, cảm giác nghẹt thở khi biết mình đã vô cùng may mắn. Anh đã sống sót qua một trong những trận chiến khốc liệt nhất của cuộc chiến. Cứng rắn và đầy kinh nghiệm, Dumpert, khi đó là một binh nhì, đã xung phong đi cùng một hạ sĩ và một binh nhất trong cuộc tuần tra định kỳ ở tiền tuyến. Anh đã ở Việt Nam được ba tháng. Đó là ngày anh gặp nạn.

“Khi chúng tôi đi ra khỏi trại,” Marke nhớ lại, “Tôi ngồi đằng trước bên cạnh cửa, viên hạ sĩ lái xe, còn binh nhất ngồi sau. Tôi nghe thấy tiếng nổ, một âm thanh thường tình ở Khe Sanh. Anh sẽ bắt đầu toát mồ hôi khi điều đó xảy ra vì anh có thể biết được độ gần của quả đạn pháo. Tôi biết đó là một trong những khẩu pháo dài gần 2 mét do Nga sản xuất vì nó nghe như một đoàn tàu chở hàng đang lao xuống. Ngay khi tôi vừa hít một hơi thở sâu… điều đó đã xảy ra.”

Dumpert bật tung khỏi xe và bị quăng vào một hàng rào thép gai xoắn. Sau đó, đến lượt chiếc xe tải cán qua và nghiến anh vào hàng rào thép gai. Cơn đau thật khủng khiếp. Anh cảm thấy như có một bóng đèn phát nổ trong mắt. Mặc dù bị gãy cổ nhưng không biết vì phép màu nào mà anh vẫn tỉnh.

May mắn là sự việc xảy ra không xa doanh trại, vì vậy anh mau chóng được cấp cứu. Được kéo ra ngoài và giải thoát khỏi mớ dây thép gai, Dumpert được đưa đến bệnh viện dã chiến gần đó và được cố định bằng hai bao cát ở hai bên đầu. Một trực thăng cứu thương đã đưa anh đến một con tàu bệnh viện trên Biển Đông. Toàn bộ hành trình, từ khi bị thương đến khi nhập viện, chỉ diễn ra trong 75 phút. Bốn ngày sau, các bác sĩ đã phẫu thuật để đưa chiếc cổ bị gãy của Dumpert trở lại vị trí cũ. Và rồi họ nói: anh sẽ sống sót nhưng sẽ bị liệt từ cổ trở xuống suốt phần đời còn lại.

Sau cuộc phẫu thuật trên tàu y tế, Marke được đưa đến Bệnh viện Hải quân Philadelphia bằng máy bay. Ở đó, họ đã giúp anh học cách hít thở trở lại, và bắt đầu vật lý trị liệu. “Họ đã làm rất tốt”, Marke nói. “Các tình nguyện viên và những người USO[2] thật tuyệt vời. Các y tá quân y cũng rất kỷ luật và tận tụy”.

Tháng 9 năm 1968 là lúc phải chuyển đến một bệnh viện cựu chiến binh. Đối với Dumpert, cũng như những người bị thương khác, điều đó có nghĩa là tình trạng của anh đã được cải thiện và ổn định đến mức có thể bắt đầu quá trình chăm sóc kéo dài. Nhưng hóa ra bệnh viện cựu chiến binh Bronx không phải là một chốn đáng mong đợi.

Bị liệt toàn thân, Marke Dumpert phải chờ rất lâu để được lau khô người trong một bệnh viện cựu chiến binh.

“Ngày họ chuyển tôi đến khoa 3-C u ám đó, tôi biết mình đã trở lại chiến trường”, Dumpert nói. “Lại là nỗi khốn khổ của Khe Sanh. Tôi đã ở trong một boongke rộng 8×21 feet (tương đương 2,4×6,4 mét) ở Khe Sanh hơn một tháng rưỡi. Tôi nhớ mùi của bốn người khác cộng với mùi của chính mình, khi chúng tôi phải để dành nước để uống chứ không thể tắm rửa, khi chúng tôi sống chung với rác, thay vì đi vứt rác và bị bắn chết. Nhưng ít nhất ở Khe Sanh, anh có thể cười đùa vui vẻ. Cái chết luôn lảng vảng xung quanh nhưng anh vẫn có khả năng thoát ra được. Nhưng ở trong bệnh viện này, sống với nỗi khổ ải của sáu thằng bị bỏ rơi, không thể tự tắm rửa, thậm chí không thể tự lấy cho mình một cốc nước, những người bị bỏ mặc hàng giờ… thật đáng sợ.”

“Không ai đáng phải sống trong những hoàn cảnh này”, Dumpert khẳng định. “Tất cả chúng tôi đều phải đeo túi đựng nước tiểu, và do không có đủ người phục vụ giúp xả đi, chúng tràn ra sàn, khô lại và bốc mùi kinh khủng. Các điều dưỡng viên làm việc không nhiệt tình lắm, nhưng với thu nhập như vậy, việc gì họ phải cố? Tôi đã nằm nghiêng một bên từ 6 giờ sáng đến 4 giờ chiều, mà không ai giúp xoay người hay rửa ráy. Nếu có lúc nào được đi tắm, sau khi tắm xong anh sẽ được đặt nằm trên tấm khăn trải giường bẩn thỉu như cũ. Tình cảnh giống như anh đang ở tù hoặc bị trừng phạt vì điều gì đó.”

Lũ chuột mới là điều tệ nhất. Dumpert kể: “Chưa đến 11 giờ nhưng tôi đã ngủ. Nhưng rồi tôi chợt tỉnh giấc và phát hiện một con chuột ở trên tay mình. Tôi không cử động được tay nên cố giật mạnh vai. Tôi hét lên và con chuột từ từ nhảy ra khỏi giường. Khi người điều dưỡng đến, tôi kể với anh ta. Anh ta nói: “Ồ, chắc anh say rồi!” Đến giờ họ vẫn chưa làm gì để xử lý việc này, vì vậy một số người không khuyết tật hoàn toàn đã đặt bẫy để bảo vệ chúng tôi. Nếu anh bị chấn thương hệ thần kinh và bị mất cảm giác, anh có thể bị cắn vào ban đêm mà không hay biết”.

Tại bệnh viện cựu chiến binh Bronx, lính thủy đánh bộ Frank Stoppiello, bị thương ở Thung lũng A Sầu (Thừa Thiên Huế, Việt Nam), đang châm một điếu thuốc cho Andrew Kmetz bị liệt toàn thân, trong khi chờ được điều trị. Vì bệnh viện quá tải, họ phải nằm cạnh các thùng rác lớn.

Dumpert nói: “Tôi cảm thấy cách người ta đối xử với các cựu binh trở về từ Việt Nam thật bất bình thường. Tôi rất tiếc khi phải nói điều này, nhưng bây giờ tôi không còn gì khác ngoài sự ghê tởm đối với đất nước của mình. Tôi đã từng ghét những người chạy sang Canada để trốn quân dịch. Bây giờ tôi không ghét họ. Tôi không thích họ, nhưng tôi tôn trọng họ vì những gì họ đã làm. Nếu tôi biết những điều này từ trước, tôi sẽ không bao giờ nhập ngũ. Ý tôi không chỉ là chấn thương này, mà còn là sự vô cảm và thiếu quan tâm. Điều đó khiến tôi băn khoăn về Việt Nam – phải chăng những người đã chết, và những người đang sống dở chết dở giống như tôi, đã chiến đấu vô nghĩa”.■

[1] Tức là thời điểm tháng 5/1970. Các số liệu trong bài cũng được thống kê tính đến thời điểm này. (ND)

[2] United Service Organizations Inc., viết tắt: USO, là một tổ chức phi lợi nhuận chuyên cung cấp các chương trình văn hóa, giải trí và các phúc lợi khác cho quân nhân Mỹ. (ND)

Blog tư liệu Tags:cựu chiến binh, Khe Sanh, Việt Nam trên báo Mỹ

Post navigation

Previous Post: Miền Bắc Việt Nam năm 1967: Bình thản, kiên cường dưới mưa bom
Next Post: Mặt trận mới của Mỹ trong cuộc chiến đang leo thang: Đồng bằng Sông Cửu Long – đầm lầy nghi kỵ

More Related Articles

Phóng sự ảnh của nhà báo Pháp: Bộ đội Bắc Việt tạo dáng trước ống kính Blog tư liệu
Cuộc chiến đầu tiên trên truyền hình Blog tư liệu
Báo chí Mỹ trong Chiến tranh Việt Nam: Kiểm duyệt hay không kiểm duyệt? Blog tư liệu
Giới thiệu sách: ‘Tôi là con gái của cha tôi’ và ‘Đừng kể tên tôi’ Blog tư liệu
Miền Bắc Việt Nam năm 1967: Bình thản, kiên cường dưới mưa bom Blog tư liệu
Nước Mỹ và ám ảnh Việt Nam Blog tư liệu

Leave a Reply Cancel reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Tra cứu

  • DANH MỤC SÁCH
  • THƯ VIỆN SỐ

Kết nối với chúng tôi

Chuyên đề

  • Việt Nam trên báo Mỹ

Bài mới

  • Phóng sự ảnh của nhà báo Pháp: Bộ đội Bắc Việt tạo dáng trước ống kính
  • Thắng địa Thăng Long – Địa linh đất Việt
  • Pol Pot: Mổ xẻ một cơn ác mộng
  • Chợ Lớn 1955: Ký và họa
  • Thăm quan Bảo tàng Maurice Long – Một công trình lộng lẫy của Hà Nội xưa

Lưu trữ

Meta

  • Log in
  • Entries feed
  • Comments feed
  • WordPress.org

Tags

1945 1954 1975 Biển Đông Báo chí Campuchia Chiến tranh Việt Nam Chiến tranh Đông Dương Châu Á chế độ thực dân Chợ Lớn chủ nghĩa thực dân chủ quyền Chủ tịch Hồ Chí Minh CIA dân tộc giới thiệu sách Hoa Kỳ Huế Hà Nội hậu thực dân Hồ Chí Minh Kennedy Lyndon B. Johnson nghệ thuật ngoại giao Ngô Đình Diệm Nhật phong trào phản chiến Pháp phản chiến phụ nữ Sài Gòn The sixties thuộc địa thư viện Thập niên 1960 tuyển dụng Vietnam War Việt Minh Việt Nam trên báo Mỹ Yokoyama Đông Dương Đông Nam Á Đảo chính
  • Kho sách Việt Nam tại Thư viện Quốc gia Pháp – BNF Tài nguyên
  • Viện Viễn Đông Bác Cổ và kho sách quý hiếm về Việt Nam Tài nguyên
  • Những tác phẩm quan trọng về Chiến tranh Việt Nam (Phần 1) Tài nguyên
  • Những tác phẩm quan trọng về Chiến tranh Việt Nam (Phần 2) Tài nguyên
  • Kho tài liệu Việt Nam trong Hội Thừa Sai Paris – MEP Tài nguyên
  • Lịch sử Viễn Đông trong kho tài liệu của Viện IRFA, Hội Thừa Sai Paris Tài nguyên

Copyright © 2023 Thư viện Nguyễn Văn Hưởng.