Hoàng Anh (dịch)
Tạp chí Phương Đông trích dịch giới thiệu tới độc giả bản báo cáo tuyệt mật (đã được giải mật) do Cơ quan Tình báo Trung ương Hoa Kỳ (CIA) biên soạn tháng 8/1972, trong giai đoạn cao điểm của cuộc Chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ hai. Bản báo cáo phân tích toàn diện những tác động kinh tế, quân sự và hậu cần của chương trình ném bom và rải mìn của Mỹ, đồng thời chỉ ra khả năng thích ứng và phục hồi đáng kể của miền Bắc Việt Nam trong việc duy trì hệ thống hậu cần và nguồn tiếp tế cho chiến trường miền Nam (ngôn ngữ trong tài liệu được giữ nguyên so với bản gốc để độc giả nghiên cứu, tham khảo).
Cơ quan Tình báo Trung ương Hoa Kỳ
Ngày 11/8/1972
Bản ghi nhớ tình báo: TUYỆT MẬT
TÁC ĐỘNG CỦA CHƯƠNG TRÌNH NÉM BOM VÀ RẢI THỦY LÔI CỦA HOA KỲ Ở MIỀN BẮC VIỆT NAM
Tóm tắt và Kết luận
Chúng tôi đã xem xét toàn bộ các dữ liệu sẵn có về những ảnh hưởng hiện tại và tiềm năng của chương trình phong tỏa – ném bom của Hoa Kỳ nhằm đánh giá tác động tổng thể của nó đối với tình hình kinh tế, hậu cần và nhân lực của Bắc Việt vào ba thời điểm: đầu tháng 8/1972, ngày 1/10/1972 và ngày 1/1/1973. Phân tích này dẫn đến các kết luận tổng quát sau:
a. Dữ liệu hiện có chỉ cho phép ước tính rất sơ bộ về khối lượng hàng nhập khẩu bằng đường bộ mà Bắc Việt đang nhận được. Theo ước tính của chúng tôi – dựa trên thông tin cực kỳ hạn chế – lượng nhập khẩu này khoảng 3.000 tấn/ngày trong tháng 6 và tháng 7/1972. Mức này chưa bằng một nửa lượng nhập khẩu trung bình hàng ngày từ cả đường biển và đường bộ cộng lại trong năm 1971, nhưng vẫn cao hơn mức tối thiểu 2.700 tấn/ngày mà chúng tôi đánh giá là cần thiết để Bắc Việt duy trì nhu cầu kinh tế thiết yếu và cung cấp đủ vật tư cho lực lượng quân sự ở miền Nam tiếp tục chiến đấu với những giai đoạn hoạt động cao điểm định kỳ.
b. Nếu không có sự gia tăng đáng kể trong hiệu quả của chương trình ngăn chặn của Mỹ, nhiều khả năng Bắc Việt có thể duy trì mức tiếp tế này. Trong những tháng tới, khi Bắc Việt tiếp tục triển khai các biện pháp đối phó (bao gồm việc hoàn thiện nhiều tuyến ống dẫn dầu từ Trung Quốc), họ có thể tăng lượng nhập khẩu vượt mức 3.000 tấn/ngày.
c. Do đó, các bằng chứng hiện có cho thấy trong vài tháng tới, nếu chỉ thiếu hụt vật tư – có thể ngoại trừ các hạng mục quan trọng như xe tăng và pháo hạng nặng – sẽ không làm suy giảm đáng kể năng lực tác chiến của các đơn vị chủ lực Bắc Việt, ít nhất là ở khu vực phía Bắc của Nam Việt Nam. Gần khu phi quân sự (DMZ) và trong Vùng Chiến thuật I của Việt Nam Cộng hòa, nhu cầu về đạn dược và vũ khí của Bắc Việt cho giai đoạn này – kể cả trong các đợt tấn công cao điểm ngắn hạn – vẫn có thể được đáp ứng từ nguồn dự trữ hiện có, được bổ sung bằng lượng hàng nhập khẩu 3.000 tấn/ngày nêu trên. Tương tự, tại Bắc Việt, dự trữ vũ khí và thiết bị hiện tại, cộng với lượng nhập khẩu bổ sung, có lẽ vẫn đủ để duy trì hoạt động phòng không ở mức hiện nay trong giai đoạn đang xem xét (có thể ngoại trừ tên lửa đất đối không SAM có tốc độ bắn giảm rõ rệt từ cuối tháng 5).

d. Ở các khu vực miền Nam Việt Nam nằm phía nam Vùng Chiến thuật I, chúng tôi không có đủ thông tin để xác định liệu lượng dự trữ của đối phương có đủ để mở các đợt tấn công lớn mới hay không – nhất là vào lúc này, đã cuối mùa mưa và sau giai đoạn tiêu hao mạnh của đối phương từ tháng 4 đến tháng 6. Tại những khu vực này, từ giờ cho cho đến ít nhất là tháng 10 – khi mùa khô bắt đầu – đối phương sẽ phải chủ yếu dựa vào lượng dự trữ được vận chuyển trong mùa khô trước đó.
e. Những tổn thất chiến đấu của phía Cộng sản ở miền Nam (đặc biệt là trong hàng ngũ cán bộ dày dạn kinh nghiệm), cộng với các đợt oanh kích dữ dội từ trên không và trên mặt đất, cùng với sự mất tinh thần trong một số đơn vị, sẽ là yếu tố quyết định hiệu quả chiến đấu nhiều hơn so với lượng dự trữ vật chất. Điều này đúng ở thời điểm hiện tại và – nếu hiệu quả của chương trình ngăn chặn không tăng lên – sẽ vẫn đúng vào ngày 1/10/1972 và 1/1/1973.
f. Hà Nội đã phải huy động một lượng lớn nhân lực để sửa chữa thiệt hại do bom mìn và duy trì mạng lưới giao thông vận tải. Dù điều đó gây xáo trộn đời sống hàng ngày và gây ra nhiều khó khăn khác, Bắc Việt vẫn có đủ lực lượng lao động khỏe mạnh để duy trì các hoạt động thiết yếu, hiện tại cũng như trong giai đoạn sắp tới được đề cập trong bản ghi nhớ này.
g. Xăng dầu và lương thực là hai nguồn tài nguyên duy nhất mà chúng tôi có thể nhận định cụ thể sẽ có thể xuất hiện tình trạng thiếu hụt nghiêm trọng trong nền kinh tế Bắc Việt từ nay đến đầu năm 1973. Dự trữ xăng hiện có thể ở mức thấp nhất kể từ đầu chiến tranh. Nếu Bắc Việt không thiết lập được dòng tiếp tế ổn định (qua các đường ống mới hoặc vận tải bằng xe lửa và xe tải), tình trạng thiếu nhiên liệu nghiêm trọng có thể xảy ra vào khoảng đầu tháng 10. Về lương thực, nếu vụ thu hoạch mùa thu sắp tới thất bát – tức là thấp bằng hoặc dưới mức năm 1971 – và Bắc Việt không thể nhập khẩu đủ gạo để bù đắp, tình trạng thiếu lương thực nghiêm trọng có thể xảy ra vào tháng 1/1973.
h. Dù sự kết hợp giữa việc giảm nhập khẩu và tiếp tục ném bom có vẻ sẽ không đủ để làm tê liệt khả năng hậu cần quân sự của Hà Nội, nhưng nền kinh tế sẽ đối mặt với nhiều khó khăn ngày càng nghiêm trọng trong những tháng tới. Phần lớn các cơ sở công nghiệp hiện đại còn non trẻ, mới được khôi phục sau chiến dịch ném bom 1965–1968, nay lại bị phá hủy một lần nữa. Người dân phải thắt lưng buộc bụng và có thể sẽ phải lặp lại điều đó vào đầu năm 1973. Thiệt hại đối với mạng lưới giao thông của Bắc Việt đã làm gián đoạn thêm các hoạt động kinh tế. Trong những tháng tới, các trục trặc chắc chắn sẽ nảy sinh – như thiếu phụ tùng hay một số loại nguyên liệu công nghiệp thô… mà giờ đây chúng tôi chưa thể xác định được, nhưng khi tích tụ lại có thể trở thành gánh nặng ngày càng lớn cho chính quyền Hà Nội. Những căng thẳng đó chắc chắn sẽ gây tác động tiêu cực tới tinh thần của người dân Bắc Việt, nhưng dân chúng nhìn chung đều đủ kiên nhẫn và kiên cường – và kỷ luật chung được củng cố bởi sự kiểm soát của Đảng vẫn đủ hiệu quả – để giảm thiểu khả năng các cân nhắc về tinh thần gây ảnh hưởng lớn đến các quyết định chính trị của Hà Nội trong vài tháng tới.

i. Nhìn chung, quan điểm của chúng tôi là: trừ khi xảy ra mất mùa nghiêm trọng hoặc có sự gián đoạn lớn hơn đối với hệ thống hậu cần so với những gì Hoa Kỳ có thể gây ra trong ba tháng qua, thì bản thân chương trình ném bom và rải thủy lôi của Hoa Kỳ sẽ không gây ra những khó khăn vượt quá khả năng kiểm soát của chính quyền Bắc Việt, từ nay đến đầu năm 1973. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng bản ghi nhớ này không xem xét hoặc đưa ra phán quyết về câu hỏi liệu sự kết hợp của các áp lực do những yếu tố khác gây ra, ngoài chương trình kiềm tỏa này của Hoa Kỳ, có thể gây ra những khó khăn vượt tầm kiểm soát buộc Hà Nội phải thay đổi chính sách hiện tại hay không.
I. Mục tiêu Bắc Việt
1. Bắc Việt không phải là một bối cảnh lý tưởng cho một chiến dịch ngăn chặn nhập khẩu và phá hoại kinh tế hiệu quả. Thứ nhất, ngoại trừ nguồn nhân lực và sản xuất nông nghiệp, nền kinh tế Bắc Việt đóng góp rất ít cho hoạt động quân sự. Công nghiệp trong nước gần như không có khả năng sản xuất trang thiết bị quân sự. Toàn bộ vũ khí hạng nặng cũng như phần lớn súng nhỏ, đạn dược và xăng dầu đều phải nhập khẩu từ các quốc gia Cộng sản khác.
2. Thứ hai, nền kinh tế Bắc Việt về cơ bản là nông nghiệp. Các ngành công nghiệp chủ yếu đơn giản, quy mô nhỏ. Một nền kinh tế như vậy có tính thích ứng và khả năng chống sụp đổ cao, đòi hỏi tương đối ít đầu vào kỹ thuật cao từ ngành công nghiệp trong nước hoặc từ nước ngoài để duy trì sản xuất.
3. Thứ ba, vì nhiều lý do, hệ thống giao thông nội bộ tương đối không dễ bị tấn công hoàn toàn. Khi Mỹ bắt đầu ném bom năm 1965, Bắc Việt đã có sẵn mạng lưới đường bộ, đường sắt và đường thủy đủ đáp ứng nhu cầu quân sự và kinh tế. Trong các năm sau đó, hệ thống này liên tục được sửa chữa và mở rộng, với nhiều tuyến đường mới song song với tuyến cũ, cùng nhiều bến phà, cầu tạm và đường tránh tại các điểm dễ bị tấn công. Khối lượng hàng hóa cần vận chuyển qua hệ thống giao thông của Bắc Việt không lớn so với năng lực tổng thể của hệ thống, và bất kỳ chiến dịch nào nhằm chặn dòng hàng hóa này đều nhanh chóng rơi vào tình trạng “hiệu quả giảm dần” – tức là càng nỗ lực thêm thì kết quả thu được càng ít đi.
4. Cuối cùng, bất kỳ chiến dịch nào nhằm cắt đứt nguồn tiếp tế cho tiền tuyến cũng phải đối mặt với thực tế rằng Bắc Việt đã xây dựng sẵn một hệ thống kho tàng dự trữ phân tán – và thường có độ an toàn cao – không chỉ trong lãnh thổ miền Bắc mà còn dọc theo hành lang tiếp tế ở Nam Lào và Đông Bắc Campuchia. Chúng tôi không thể xác định chính xác tổng lượng vật tư được tích trữ, nhưng bằng chứng cho thấy chúng rất lớn. Trong suốt cuộc chiến, chúng tôi đã thu thập một khối lượng lớn thông tin về học thuyết dự trữ hậu cần của phe Cộng sản liên quan tới cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Nhìn chung, học thuyết này mang tính bảo thủ. Chính sách của Bắc Việt là luôn duy trì các kho dự trữ nguyên liệu chiến tranh khổng lồ và không chuẩn bị cho các chiến dịch tấn công theo kiểu “sống ngày nào hay ngày đó”. Trong suốt cuộc chiến, tư tưởng hậu cần của họ luôn là có lượng dự trữ lớn về mọi loại trang bị và vật tư cơ bản.
II. Tình hình nhập khẩu
1. Cho tới nay, thành công tương đối của Bắc Việt trong việc duy trì vận tải phần lớn là nhờ áp dụng hiệu quả các biện pháp đối phó. Giống như trong giai đoạn 1965–1968, việc họ có khả năng xây dựng nhanh các tuyến đường tránh, cầu phao và đường tạm xung quanh các điểm nóng đã giúp giảm thiểu đáng kể tác động từ các cuộc ném bom của Mỹ. Sau một thời gian thử nghiệm ngắn ngủi trong những tuần đầu tiên của cuộc ném bom, những người Cộng sản đã bắt đầu một chương trình đối phó đồng bộ. Các đội xây dựng đã cố gắng giữ cho hầu hết các tuyến đường giao thông chính và các điểm nghẽn được thông suốt trong phần lớn thời gian, và lưu lượng giao thông lớn vẫn tiếp tục di chuyển vào và ra khỏi đất nước. Do đó, nếu không gia tăng cường độ không kích hiện tại vào các mục tiêu vận tải ở phía bắc Hà Nội, có khả năng mức độ tiếp tế của Bắc Việt sẽ còn tăng trong những tháng tới.

2. Một yếu tố khác trong đánh giá này là việc xây dựng các đường ống dẫn dầu mới từ Trung Quốc hiện nay. Hiện tại có ba đường ống đang được xây dựng, khi hoàn thành sẽ có công suất tối thiểu tổng cộng khoảng 3.000 tấn mỗi ngày. Mặc dù có vẻ rất khó có khả năng Bắc Việt sẽ sử dụng hết công suất của hệ thống này, nhưng sự tồn tại của nó sẽ cải thiện đáng kể tình hình nhập khẩu của Bắc Việt – với điều kiện Bắc Việt có thể duy trì hoạt động của nó. Hơn nữa, một khi hệ thống hoàn thành toàn bộ, nó sẽ mang lại khả năng bơm xăng dầu đi khắp đất nước và vào cả phía Bắc của Nam Việt Nam và Nam Lào.
3. Cuối cùng, dường như chính Bắc Việt Nam cũng lạc quan về triển vọng nhập khẩu của mình. Cho đến nay, tình báo thông tin đã có những dấu hiệu cho thấy Hà Nội dự kiến sẽ nhập khẩu khoảng 37.000 tấn dầu mỏ và 102.000 tấn lương thực trong tháng 8. Chỉ riêng hai đơn hàng này, nếu hoàn thành, sẽ tương đương khoảng 4.500 tấn mỗi ngày – vượt xa ước tính tối thiểu của chúng tôi về lượng hàng giao thực tế bằng đường bộ trong tháng 6 và tháng 7.
III. Tác động đối với nền kinh tế
1. Chương trình phong tỏa và đánh phá hiện tại đã gây thiệt hại nặng nề cho cơ sở vật chất của Bắc Việt, đồng thời làm gián đoạn nghiêm trọng các mô hình kinh tế bình thường. Chúng tôi ước tính rằng hơn 100 triệu USD giá trị công trình kinh tế và quân sự đã bị phá hủy kể từ tháng 5. Tác động của chương trình này đối với khu vực công nghiệp hiện đại của Bắc Việt Nam là tàn khốc: gần như mọi cơ sở công nghiệp lớn đều đã bị đánh trúng, phải ngừng hoạt động hoặc chỉ vận hành dưới công suất. Việc phá hủy hệ thống điện lưới quốc gia và hạn chế lưu chuyển nguyên liệu thô trên toàn quốc đã làm trầm trọng thêm tình trạng đình trệ kinh tế. Các thiệt hại gián tiếp do sản xuất bị gián đoạn sẽ tiếp tục gia tăng chừng nào các cơ sở sản xuất của Bắc Việt còn bị tê liệt.
2. Tuy nhiên, mức độ nghiêm trọng của tình trạng đình trệ kinh tế hiện nay ở Bắc Việt cần được xem xét trong bối cảnh tổng thể. Việc mất mát khu vực công nghiệp hiện đại thực ra không ảnh hưởng lớn đến đời sống của khoảng 90% dân số – những người sống ngoài các đô thị lớn. Chỉ có rất ít sản phẩm công nghiệp (dù là sản xuất trong nước hay nhập khẩu) được dân thường mua sắm, nên việc thiếu vắng các sản phẩm này không gây tác động rõ rệt đến đời sống hàng ngày. Tầm quan trọng hạn chế của toàn bộ khu vực công nghiệp, bao gồm cả các cơ sở hiện đại và các xưởng thủ công quy mô nhỏ, có thể thấy rõ qua số liệu sản xuất hàng tiêu dùng công nghiệp cho người dân Bắc Việt năm 1963: tổng cộng chỉ đạt dưới 150.000 tấn, tính cho mọi loại sản phẩm. Ngay cả khi toàn bộ sản lượng hàng tiêu dùng công nghiệp (mà đến năm 1972 cũng không tăng đáng kể so với năm 1963) bị mất hoàn toàn, thì mức thiếu hụt đó hoàn toàn có thể được bù đắp bằng một lượng nhập khẩu tương đối nhỏ. Hơn nữa, ngay cả trong trường hợp không thể nhập khẩu, người nông dân Bắc Việt vẫn có thể dễ dàng quay lại lối sống và sản xuất giản dị như những năm trước đây.

3. Về mặt nhập khẩu, mô hình hàng hóa nhập vào Bắc Việt từ tháng 5 trở đi thể hiện sự tương đồng đáng ngạc nhiên với những năm gần đây – ngoại trừ một vài điểm khác biệt đáng chú ý.
4. Dữ liệu nhập khẩu trên cho thấy Bắc Việt đang ngày càng chú trọng vào việc củng cố hệ thống giao thông nội địa. Số lượng xe tải được gửi từ Liên Xô và Trung Quốc đều rất lớn. Ngoài ra, một lượng lớn thép tấm đóng sà lan và sắt tấm đang được gửi bằng đường sắt từ Hungary sang để xây dựng và sửa chữa các thiết bị vận tải, ví dụ như sà lan và cầu phao. Các lô xăng dầu cũng phản ánh mức độ ưu tiên cao cho lĩnh vực vận tải. Lượng xăng dầu ghi nhận trong bảng trên chỉ là mức tối thiểu đã được giao thực tế – dựa trên các thông điệp liên lạc chặn được – và chỉ chiếm một phần rất nhỏ so với các yêu cầu thực tế của Bắc Việt đối với Liên Xô trong tháng 6 (55.000 tấn) và tháng 7 (29.000 tấn). Đối với tháng 8, Hà Nội đã yêu cầu Trung Quốc cung cấp 37.000 tấn dầu, cao hơn một chút so với mức trung bình hàng tháng mà Liên Xô cung cấp trong năm 1971.
5. Có nhiều dấu hiệu cho thấy chính sách nhập khẩu hiện nay của Hà Nội không bị hạn chế nghiêm ngặt, như thường thấy trong tình huống khẩn cấp – tức là chỉ tập trung vào các mặt hàng cực kỳ thiết yếu. Chính phủ Bắc Việt vẫn nhập khẩu nhiều mặt hàng tiêu dùng như đĩa hát, cúc áo, khóa kéo, và móc khóa. Không những các lô hàng này đã được giao kể từ khi các cảng bị rải thủy lôi, mà còn có các cuộc thương lượng tiếp tục diễn ra để nhập khẩu thêm các hàng hóa tiện dụng nhưng không thiết yếu này. Dù khối lượng các mặt hàng này khá nhỏ so với tổng lượng nhập khẩu đường bộ, nhưng điều đó cho thấy tình hình cung ứng các mặt hàng thiết yếu như xăng dầu, vũ khí, và phương tiện vận tải đủ vững chắc để Hà Nội có thể dành một phần năng lực vận tải hạn chế cho những mặt hàng xa xỉ hơn.
6. Tình hình nhập khẩu lương thực cũng rất đáng chú ý. Vụ thu hoạch vừa qua (tháng 5/1972) được đánh giá là thành công, đủ để đáp ứng nhu cầu trong vài tháng tới. Hiện tại không có dấu hiệu đáng kể nào cho thấy thiếu lương thực ở Bắc Việt – thậm chí gần đây chính quyền đã cho phép người dân nhận gấp đôi khẩu phần lương thực trong tháng 8, đề phòng khó khăn về phân phối do lũ lụt trong tháng này và tháng sau. Tuy nhiên, kể từ khi các cảng bị phong tỏa, Hà Nội vẫn yêu cầu các chuyến giao hàng lương thực lớn từ Trung Quốc, với đơn hàng đặc biệt lớn cho tháng 8.
7. Không có bằng chứng chắc chắn cho thấy Trung Quốc đã thực sự giao được bao nhiêu trong số các đơn hàng này, nhưng các điện tín chặn được cho thấy một lượng đáng kể hàng hóa đã vào lãnh thổ Bắc Việt. Những đơn hàng lớn này phản ánh rằng Bắc Việt tin tưởng vào khả năng vận chuyển khối lượng hàng đáng kể từ biên giới Trung Quốc xuống phía nam.
8. Từ các dữ kiện hiện có, có thể rút ra một số nhận định mang tính suy đoán về chính sách nhập khẩu lương thực của Hà Nội. Bắc Việt có thể lo ngại rằng mức dự trữ hiện tại chưa đủ để ứng phó với những tình huống bất ngờ trong tương lai, nhất là vụ mùa thu sắp tới. Hoặc Hà Nội chủ động đặt mua lượng hàng vượt quá nhu cầu thực tế, nhằm đảm bảo nguồn cung hoặc đàm phán có lợi hơn. Dù lý do là gì, rõ ràng là Hà Nội sẵn sàng dồn gánh nặng lên hệ thống vận tải hiện có để thực hiện các kế hoạch nhập khẩu mang tính dài hạn, cho thấy nhu cầu vật tư chiến lược quan trọng hiện tại đã được đáp ứng khá đầy đủ. Điều này ngụ ý rằng con số ước tính 3.000 tấn hàng nhập khẩu mỗi ngày của chúng ta chỉ phản ánh một phần năng lực hậu cần mà Bắc Việt tin rằng mình có thể đạt được trong tương lai.
IV. Tác động đối với năng lực quân sự
1. Hoạt động hậu cần của đối phương tại phía Nam của Bắc Việt trong ba tháng qua đã bảo đảm dòng tiếp tế ổn định cho các lực lượng đang giao chiến với Quân lực Việt Nam Cộng hòa ở phía Bắc của Nam Việt Nam. Ở các khu vực khác thuộc Đông Dương, do đã đi qua hơn một nửa mùa mưa năm 1972, nên các kho dự trữ quân sự của Cộng sản đã bị rút giảm đáng kể; tuy nhiên, những bằng chứng hiện có cho thấy vẫn còn lượng dự trữ lớn.

2. Tất cả các nguồn tình báo đều cho thấy rằng kể từ khi Mỹ nối lại chiến dịch ném bom quy mô lớn, Cộng sản vẫn duy trì hoạt động hậu cần ở mức độ cao tại phía Nam Bắc Việt. Từ đầu tháng 5 đến giữa tháng 7, các thông tin liên lạc từ một cơ quan hậu cần đặt tại Vinh mà CIA chặn được tiết lộ lượng xe vận tải hoạt động dày đặc đi qua khu vực “cổ chai” này của Bắc Việt. Các khu kho trực thuộc thường xuyên báo cáo việc tiếp nhận và phân phối số lượng lớn vũ khí đạn dược, trong đó phần lớn được chuyển tới Nam Việt Nam. Theo dữ liệu thu được, khối lượng hàng quân sự phát hiện được (chỉ là một phần của tổng số) tại khu vực Vinh gồm: 609 tấn trong tháng 5, 2.048 tấn trong tháng 6, và 214 tấn trong giai đoạn ngày 1–14 tháng 7.
3. Trong suốt tháng 6, hầu hết các tuyến đường ở dải đất hẹp miền Trung của Bắc Việt đều duy trì hoạt động, một số tuyến chịu tải xe cộ rất nặng. Ngày 30/6, các phi công Mỹ quan sát thấy một đoàn khoảng 50 xe tải di chuyển về hướng nam, ở ngay phía bắc Thanh Hóa. Ngày 3/7, cũng ở cùng khu vực này, các phi công báo cáo “một khối liền xe tải” kéo dài hàng km dọc Quốc lộ 1A. Những hoạt động gần đây hơn gồm báo cáo ngày 17/7 của phi công Mỹ cho thấy các cây cầu ở vùng phía dưới dải đất hẹp miền Trung đang được xây dựng lại và được sử dụng nhiều, và báo cáo ngày 21/7 ghi nhận 70 xe tải trên Tuyến đường 15. Ngoài ra, các phi công còn báo cáo về hoạt động mà họ cho là việc tiếp tế ban đêm đáng kể bằng tàu thuyền ven biển.
4. Để duy trì luồng vận chuyển lớn vũ khí và đạn dược về phía Nam, Bắc Việt đã triển khai một số lượng đáng kể các tiểu đoàn vận tải. Kể từ giữa tháng 5, 16 tiểu đoàn vận tải đã được phát hiện đang vận chuyển hàng; trong số đó, 13 đơn vị được xác định lần đầu tiên. Để hỗ trợ nỗ lực hậu cần, Bắc Việt cũng đã tái lập một cơ quan hậu cần ở khu vực Thanh Hóa, có thể là để liên kết hệ thống hậu cần quân sự ở Hà Nội với trung tâm hậu cần tại Vinh.
5. Có khả năng liên quan đến việc tái lập tổ chức hậu cần tại Thanh Hóa, một kho lưu trữ quy mô lớn mới đã được thiết lập từ đầu tháng 6, có vẻ ở gần Thanh Hóa, với mục đích “tạo một căn cứ hàng hóa phục vụ tiền tuyến”. Theo thông tin liên lạc bị chặn, cơ sở này được thiết kế để chứa từ 3.000 đến 5.000 tấn hàng tiếp tế. Ngoài ra, một số khu kho mới khác cũng được xây dựng phía Đông – Nam Vinh và tại hai địa điểm khác. Cả bốn cơ sở đều tham gia vào hoạt động vận tải kể từ khi chiến dịch ném bom bắt đầu, đặc biệt là các kho gần Thanh Hóa và Vinh, vốn thường xuyên tiếp nhận và gửi đi số lượng lớn vũ khí đạn dược vào Nam Việt Nam.
6. Mặc dù có nhiều bằng chứng cho thấy Cộng sản vẫn tiếp tục vận chuyển một lượng lớn hàng hóa qua phía Nam Bắc Việt, việc duy trì dòng tiếp tế này đang gây áp lực lớn lên hệ thống hậu cần, và một số khó khăn đã bắt đầu xuất hiện. [một đoạn không được giải mật]
Yêu cầu tái tiếp tế quân sự
7. Nhu cầu nhập khẩu quân sự của Bắc Việt để duy trì chiến tranh ở mức độ như bốn tháng vừa qua được ước tính trung bình khoảng 510 tấn/ngày gồm vũ khí, đạn dược và xăng dầu. Khối lượng này đủ để Bắc Việt tiến hành chiến sự ở Nam Việt Nam với mức hoạt động cao trong từng giai đoạn, đồng thời đáp ứng nhu cầu hậu cần thiết yếu của lực lượng ở Campuchia và Lào.

8. Xăng dầu là một trong các mặt hàng quân sự nhập khẩu thiết yếu nhất. Trong khoảng 330 tấn xăng dầu mỗi ngày dùng cho mục đích quân sự, xe tải và xe tăng trong biên chế của Bắc Việt tiêu thụ khoảng 165 tấn, phần còn lại dùng cho các phương tiện trực tiếp phục vụ chiến đấu, đặc biệt là tàu thuyền nội địa.
9. Nhu cầu đạn dược để duy trì mức độ giao tranh như những tháng gần đây được ước tính khoảng 100 tấn/ngày trên toàn Đông Dương. Trong đó, các loại đạn phòng không, tên lửa đất đối không (SAM) và đạn sử dụng trong lãnh thổ Bắc Việt chiếm khoảng 53 tấn/ngày (ước tính này dựa trên tốc độ tiêu hao thực tế và so sánh với kinh nghiệm chiến đấu tại các khu vực khác ở Đông Dương). Nhu cầu đạn dược tại Lào, Campuchia và Nam Việt Nam ước tính khoảng 47 tấn/ngày (24 tấn cho Nam Việt Nam, 18 tấn cho Lào, và 5 tấn cho Campuchia). Các con số này bao gồm đạn phòng không và đạn sử dụng trong các hoạt động chiến đấu trên bộ.
10. 80 tấn còn lại trong tổng số 510 tấn/ngày là vũ khí và trang thiết bị quân sự khác mà Bắc Việt cần để duy trì hoạt động cả trong nước lẫn trên các chiến trường Đông Dương.
11. Không có bằng chứng trực tiếp nào cho biết tổng lượng nhập khẩu quân sự của Bắc Việt, và chúng ta cũng không thể kỳ vọng có được những bằng chứng đó trong tương lai. Tuy nhiên, với tỷ lệ hàng quân sự chiếm phần nhỏ trong tổng luồng nhập khẩu, Bắc Việt nhiều khả năng vẫn có thể đáp ứng đầy đủ nhu cầu tái tiếp tế quân sự trong 6 tháng tới trong bất kỳ hoàn cảnh nào, miễn là Liên Xô và Trung Quốc vẫn tiếp tục cung cấp hàng hóa.■

