George C. Herring
Hoàng Anh (dịch)
Tiếp tục series bài nhìn lại cuộc chiến tranh ở Việt Nam vào năm bản lề 1967 đăng tải trên báo Mỹ New York Times năm 2017, Tạp chí Phương Đông giới thiệu tới bạn đọc bài viết của George C. Herring, giáo sư lịch sử tại Đại học Kentucky, và là một trong những sử gia hàng đầu của Mỹ về cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Tác giả lập luận rằng chiến lược “chiếm cảm tình” người dân miền Nam Việt Nam (winning hearts and mind – WHAM) của Hoa Kỳ thất bại không chỉ vì những hạn chế về quân sự, mà còn bởi sự thiếu hiểu biết về ngôn ngữ, văn hóa và tâm lý của người Việt. Ngôn từ trong bài được giữ nguyên so với bản gốc để độc giả tham khảo.
Ngay từ những giai đoạn đầu của Chiến tranh Việt Nam, các quan chức Mỹ đã khẳng định rằng việc chinh phục được “trái tim và tâm trí” của người dân miền Nam Việt Nam là chìa khóa dẫn đến chiến thắng. Nhưng những người Mỹ được giao nhiệm vụ thực hiện chiến lược đó lại không được trang bị đầy đủ, cả về ngôn ngữ lẫn văn hóa, để chiến lược đó có tác dụng. Và cuối cùng, sự thiếu hụt đó đã hủy hoại bất kỳ thiện chí nào đã có thể tồn tại ở cả hai phía và khiến cuộc xâm lược Việt Nam của Mỹ thất bại.
Bùi Diễm, Đại sứ của Việt Nam Cộng hòa tại Washington từ năm 1965 đến năm 1972, đã từng gọi hai nước là “hai dân tộc khá khác biệt”. Và quả thực, văn hóa Mỹ và Việt Nam gần như không có sự giao thoa trước năm 1950, khi Hoa Kỳ bắt đầu đưa người sang hỗ trợ cuộc chiến chống Cộng sản. Rất ít người Mỹ được cử đến Nam Việt Nam có hiểu biết sâu sắc về ngôn ngữ, lịch sử, truyền thống tôn giáo, nghi thức hay chính trị của đất nước này. Sự chia rẽ văn hóa càng trầm trọng hơn bởi một vấn đề chiến lược: Mặc dù hai quốc gia đồng thuận về mục tiêu cơ bản là duy trì một miền Nam Việt Nam độc lập, phi Cộng sản, nhưng lợi ích của cuộc chiến đối với mỗi bên lại khác biệt rõ ràng. Hoa Kỳ chỉ tìm cách duy trì uy tín của mình; còn miền Nam Việt Nam lại chiến đấu vì sự tồn tại của mình.
Mối quan hệ giữa họ là mối quan hệ giữa người bảo trợ với khách hàng. Hoa Kỳ, quốc gia hùng mạnh nhất thế giới và vẫn đang hân hoan sau chiến thắng trong Thế chiến II, tự tin vào sức mạnh của mình – và cả phẩm giá của mình. Hoa Kỳ mong muốn dẫn đầu và được các nước khác noi theo. Ngược lại, người dân miền Nam Việt Nam, công dân của một quốc gia mong manh vừa được giải phóng khỏi ách thống trị của thực dân và đang bị đe dọa bởi các cuộc nổi dậy trong nước cùng sự xâm lược từ nước ngoài, nhận ra nhu cầu cấp thiết về sự giúp đỡ của Hoa Kỳ, nhưng họ cũng rất nhạy cảm với sự thống trị của một thế lực bên ngoài. Họ đấu tranh để duy trì phẩm giá và quyền tự chủ của mình.
Từ năm 1950 đến năm 1965, vai trò của Hoa Kỳ trong khu vực, mặc dù đáng kể về mặt tiền bạc và vật chất, nhưng lại chỉ chiếm một dấu ấn hạn chế trong cuộc sống thường nhật của người dân Việt Nam. Điều đó đã thay đổi trong khoảng thời gian từ năm 1965 đến 1967, khi việc “Mỹ hóa” chiến tranh đã đưa hàng trăm nghìn binh lính và thường dân vào Việt Nam và đưa một “bộ mặt Mỹ” vào cuộc tàn phá ngày càng lan rộng do cả hai bên gây ra.

Bùi Diễm nhắc đến sự thiếu giao tiếp giữa hai dân tộc trong cuộc leo thang lớn năm 1965, “sự kiêu ngạo vô thức” của người Mỹ và sự bất lực của Nam Việt Nam. “Người Mỹ xông vào như máy ủi và người Nam Việt Nam đi theo sự dẫn dắt của họ mà không một lời bất đồng, phần lớn là không hề nghĩ đến sự bất đồng”.
Sau năm 1965, Hoa Kỳ gánh vác trọng trách đánh bại kẻ thù về mặt quân sự. Hoa Kỳ từ chối thiết lập một cơ cấu chỉ huy chung với Nam Việt Nam, như đã từng làm ở Triều Tiên. Hoa Kỳ giao cho Quân đội Việt Nam Cộng hòa nhiệm vụ bình định, một nhiệm vụ mà nhiều người Việt Nam coi là bị sỉ nhục. Việc Mỹ hóa chiến tranh cũng tạo ra trong người Nam Việt Nam một “hiệu ứng tiếp quản”, mời gọi họ đứng yên và để người Mỹ chiến đấu với Việt Cộng và Bắc Việt. Đáng buồn thay, hành động của Mỹ đã khuyến khích sự phụ thuộc ở một quốc gia mà Mỹ đang tìm cách duy trì nền độc lập.
Khi sự hiện diện của Mỹ ngày càng gia tăng, căng thẳng giữa hai dân tộc cũng gia tăng. Người miền Nam Việt Nam phẫn nộ trước cách các vị khách coi thường họ và áp đặt lối sống của họ lên một dân tộc bị cho là thấp kém hơn. Họ khó chịu trước sự thiếu kiên nhẫn của Mỹ. Một số người ghen tị với lối sống xa hoa của người Mỹ, với những căn cứ quân sự khổng lồ được trang bị đầy đủ tiện nghi như ở nhà, bao gồm máy lạnh, trung tâm mua sắm và rạp chiếu phim. Những người khác phản đối rằng quân đội đã hành động “một cách hèn hạ” đối với họ, phóng xe tải và xe hơi qua dòng xe cộ với tốc độ nguy hiểm đến tính mạng. Một số người cho rằng Mỹ viện trợ như thể đang “cho một người ăn xin”.
Nhìn chung, nhiều người Nam Việt Nam phẫn nộ trước sự phụ thuộc của họ vào đồng minh và sự hiện diện ngột ngạt của Mỹ trong cuộc sống của họ. Một số người gọi “sự chiếm đóng của Mỹ” là “tai họa làm suy thoái tinh thần”. Nhà báo Robert Shaplen nhận xét rằng người Việt Nam thừa nhận rằng người Mỹ không phải là “thực dân”, nhưng ông nói thêm một cách tinh tế rằng “ở đây đã hình thành một bầu không khí thực dân đôi khi còn tồi tệ hơn cả chính chủ nghĩa thực dân”.
Trong bầu không khí rộn ràng sau khi “Mỹ hóa”, nền kinh tế Nam Việt Nam tập trung vào việc phục vụ nhu cầu của những người mới đến. Mại dâm trở thành một vấn nạn đặc biệt. Khi số lượng người Mỹ ở Sài Gòn tăng vọt đến hàng chục ngàn, số lượng nhà chứa cũng tăng theo, gây ra sự chỉ trích ở Hoa Kỳ và Nam Việt Nam. Thượng nghị sĩ J. William Fulbright của bang Arkansas đã phẫn nộ cho rằng Sài Gòn đã trở thành một “nhà thổ của Mỹ”. Những người Công giáo ở Nam Việt Nam và Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu đặc biệt lo ngại về mại dâm, và đã cầu xin các quan chức Mỹ làm gì đó về sự hiện diện ngột ngạt của quá nhiều binh lính.
Kết quả là Chiến dịch Moose (Move Out of Saigon Expeditiously – Nhanh chóng chuyển ra khỏi Sài Gòn), được triển khai chủ yếu vào năm 1967. Hàng ngàn lính Mỹ đã chuyển đến các trại căn cứ bên ngoài thành phố (nơi mà gái mại dâm cũng nhanh chóng đi theo). Lính Mỹ cũng không được vào Sài Gòn nghỉ phép. Tốc độ thực hiện diễn ra chậm đến mức chiến dịch này được gọi một cách không chính thức là Goose (Get Out of Saigon Eventually – Cuối cùng cũng biến khỏi Sài Gòn).

Cuộc di tản này để lại khoảng 7.900 lính Mỹ trong thành phố. Chiến dịch Moose không làm Nguyễn Văn Thiệu hài lòng, và nó chỉ mang lại một giải pháp cục bộ cho vấn đề mại dâm. Nó cũng khiến Sài Gòn dễ bị tổn thương hơn trước các cuộc tấn công vào đô thị do Việt Cộng phát động trong cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân năm 1968.
Cách thức tiến hành chiến tranh của Mỹ cũng gây ra tổn thất to lớn cho đời sống nông thôn ở miền Nam Việt Nam. Để hạn chế thương vong và đối phó với địa hình xa lạ và thường khắc nghiệt, Hoa Kỳ đã trút hỏa lực mạnh mẽ vào đất nước mà họ đang cố gắng cứu vãn. Những khu vực bị nghi ngờ là có địch sẽ bị ném bom, pháo kích và đốt cháy bằng bom napalm, mà thường không cân nhắc đến tác động đối với dân thường. Chất làm rụng lá được sử dụng để ngăn chặn nguồn lương thực và nơi ẩn náu của địch, gây ra những hậu quả khủng khiếp cả trước mắt và lâu dài cho người Việt Nam.
Hỏa lực của Mỹ đã phá hủy nhà cửa, làng mạc, mùa màng và khiến những “trái tim và tâm trí” cần được chinh phục càng trở nên xa lánh Mỹ. Các chỉ huy Mỹ tuyên bố toàn bộ khu vực là vùng bắn phá tự do. Binh lính sẽ tập trung dân làng, đốt cháy những túp lều của họ và di dời họ khỏi vùng đất của tổ tiên để đến các trại tị nạn tồi tàn. Khu vực này sau đó sẽ bị ném bom và pháo kích. Trong Chiến dịch Cedar Falls năm 1967, quân Mỹ đã cưỡng chế di dời khoảng 6.000 thường dân khỏi làng Bến Súc. Bị kẹt giữa Việt Cộng và quân Mỹ, những người dân làng chỉ muốn được yên thân đã trở nên buồn bã hoặc tỏ ra thù địch. Đến đầu năm 1967, hơn 1,5 triệu người tị nạn đã trôi dạt vào các khu ổ chuột ở đô thị, nơi họ dễ bị ảnh hưởng bởi hoạt động tuyên truyền của Việt Cộng.

Chắc chắn, nhiều người Mỹ đã xây dựng mối quan hệ gần gũi với người Việt Nam. Nhiều người cũng đã thực hiện những hành động tử tế như cung cấp dịch vụ chăm sóc y tế và thực phẩm cho những người gặp khó khăn. Đặc biệt là trong những năm đầu và ở những vùng xa xôi, các cố vấn Mỹ đã hình thành mối quan hệ gắn bó với binh lính và dân làng người Việt. Hàng ngàn binh sĩ đã kết hôn với phụ nữ Việt Nam.
Tuy nhiên, hầu hết người Mỹ đến Việt Nam mà không hề biết gì về đất nước và con người nơi đây. “Thời gian tôi ở Việt Nam là ký ức về sự ngu muội”, một lính Mỹ sau này đã viết như vậy. Không biết ngôn ngữ hay văn hóa, người Mỹ không hiểu được cảm xúc của người dân, thậm chí đôi khi không biết cách phân biệt giữa bạn và thù. “Điều chúng ta cần là một loại giấy quỳ chuyển sang màu đỏ khi ở gần một người Cộng sản”, một sĩ quan Mỹ nửa đùa nửa thật nói với một nhà báo.
Mối quan hệ với binh lính Nam Việt Nam cũng căng thẳng không kém. Không nhận thức được những khó khăn mà đồng đội của mình đang phải trải qua, lính Mỹ đã hạ thấp phẩm chất chiến đấu của họ. Những người mới đến mong đợi những người mà họ đang bảo vệ sẽ thể hiện kiểu lòng biết ơn mà họ tin rằng cha ông họ đã từng nhận được vì đã giải phóng nước Pháp trong Thế chiến II. Nhưng khi gặp phải sự thờ ơ hoặc thậm chí là thù địch, họ bắt đầu oán giận.
Đối với nhiều người Mỹ, người miền Nam Việt Nam trở thành đối tượng của sự khinh miệt, thậm chí là thù hận. “Người dân ở đó thật gian manh”, một lính Mỹ sau này nhớ lại. “Khi chúng tôi ở trong làng thì họ nói “Lính Mỹ là Số 1” , nhưng ban đêm, những con chuột bẩn thỉu đó lại là Việt Cộng”. Việc dân làng có thể an toàn bước qua những bãi mìn và bẫy mìn đã khiến người Mỹ thiệt mạng và bị thương làm khơi dậy sự nghi ngờ về việc thông đồng – và cả sự tức giận.

Người Mỹ cũng mang theo những thái độ phân biệt chủng tộc ăn sâu bén rễ, dẫn đến việc sử dụng những từ ngữ miệt thị mà họ dùng cho cả kẻ thù và bạn bè. Sự khinh miệt có thể nhanh chóng chuyển thành cơn thịnh nộ nhắm vào thường dân Việt Nam. Trong suốt mùa hè và mùa thu năm 1967, Lực lượng Mãnh hổ (Tiger Force) khét tiếng, một đơn vị biệt kích tinh nhuệ của Mỹ, được giao nhiệm vụ di tản thường dân khỏi Thung lũng Sông Vệ, nơi bị nghi ngờ là nguồn cung cấp gạo cho các đơn vị Việt Cộng. Chính cái tên của chiến dịch này – Chiến dịch Da sống – đã gợi lên một cuộc vây bắt gia súc phi nhân tính. Khi dân thường chống cự, các “Mãnh hổ” trút cơn thịnh nộ bằng cách đốt làng. Bất mãn với nhiệm vụ và liên tục bị đối phương bắn tỉa, quân Mỹ tuyên bố khu vực này là vùng tự do bắn phá và bắn bất cứ thứ gì di chuyển, dẫn đến cái chết thảm khốc của nhiều thường dân.
Tuy nhiên, Lực lượng Mãnh hổ lại được giao một nhiệm vụ khác, tương tự, là di tản dân thường khỏi tỉnh Quảng Trị. Ngay từ đầu chiến dịch, họ đã bị mắc kẹt trong một cuộc phục kích chết người và chịu tổn thất nặng nề. Sau đó, mọi sự kiềm chế đều bị phá bỏ. Các chỉ huy tiếp tay cho cuộc trả thù bằng cách đặt mục tiêu tiêu diệt 327 người (tương đương với con số của Trung đoàn Bộ binh 327, đơn vị chủ quản của Lực lượng Mãnh hổ). Các “Mãnh hổ” đã tiếp tục giết hại hàng trăm thường dân và gia tăng tội ác bằng cách cắt xẻo thi thể nạn nhân, bao gồm cả các cụ bà và thậm chí cả trẻ sơ sinh. Cuộc tàn sát chỉ dừng lại khi chiến dịch kết thúc vào tháng 11/1967.
Hành động của Lực lượng Mãnh hổ đã được tái hiện với những hậu quả thậm chí còn tàn bạo hơn tại Mỹ Lai, tỉnh Quảng Ngãi, vào tháng 2/1968, nơi lính Mỹ đã giết chết hàng trăm thường dân Việt Nam. Những hành động tàn bạo như vậy không điển hình cho hành vi của người Mỹ, và ngay cả tại Mỹ Lai cũng có những binh sĩ chống lại lệnh giết chóc của chỉ huy. Tuy nhiên, bạo lực tàn bạo phản ánh thái độ đối với người Việt Nam, điều vốn đã chia rẽ hai dân tộc và khiến Nam Việt Nam trở nên lệ thuộc vào người Mỹ. Với những thất vọng, thất bại và thương vong ngày càng tăng trong nỗ lực chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam, thì những hành động tàn bạo đó có lẽ chỉ là vấn đề sớm hay muộn mà thôi.■

