Skip to content
  • ĐĂNG KÝ LÀM THẺ
  • ĐĂNG KÝ TẢI TÀI LIỆU SỐ
Thư viện Nguyễn Văn Hưởng

Thư viện Nguyễn Văn Hưởng

CỔNG THÔNG TIN – NVH LIBRARY'S PORTAL

  • Trang chủ
  • Giới thiệu
    • Giới thiệu thư viện
    • Đội ngũ nhân sự
    • Liên hệ
    • Báo chí
    • Tuyển dụng
  • Dịch vụ thư viện
    • Câu hỏi thường gặp
    • Bảng giá dịch vụ
    • Đăng ký làm thẻ
    • Đăng ký tài khoản Thư viện số
  • Tài nguyên
    • Blog tư liệu
    • Xuất bản
    • Tin tức
  • Danh mục sách
  • Thư viện số
  • Trưng bày trực tuyến
  • Toggle search form
  • Bàn về đọc sách Blog tư liệu
  • Vài ý kiến về giáo dục mỹ thuật tại các cấp trung, tiểu học Blog tư liệu
  • Nixon và cuộc diệt chủng Campuchia Blog tư liệu
  • Kinh tế – xã hội Việt Nam thời kỳ sau chiến tranh và Đổi mới Blog tư liệu
  • Quang cảnh Hà Nội cuối thế kỷ 19 Blog tư liệu
  • Cựu binh Mỹ trở về từ Việt Nam: Chiến đấu để rồi bị bỏ mặc Blog tư liệu
  • Tài liệu giải mật: Các giải pháp thay thế cho gia đình họ Ngô ở Nam Việt Nam Blog tư liệu
  • Di tích văn hóa của người Chiêm thành ở xứ Bắc Kỳ Blog tư liệu
  • Quốc thư trao đổi giữa vua Louis XIV và Chúa Trịnh năm 1681 Blog tư liệu
  • Hồi ký Maneli chương 6: Cuộc thăm dò của Nhu và Hà Nội Blog tư liệu
  • Những cuốn sách viết về Thập niên 1960 Blog tư liệu
  • Vấn đề chủ quyền ở Hoàng Sa – Trường Sa theo hướng tiếp cận toàn bộ, toàn diện của lịch sử Việt Nam Blog tư liệu
  • Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt Blog tư liệu
  • Nguyễn Trung Trực – một Kinh Kha chống Pháp của miền Nam Blog tư liệu
  • Giới thiệu sách: Hàm Nghi – Hoàng đế bị lưu đày, người nghệ sĩ tại Alger Blog tư liệu

Nhà báo Nhật trở về sau 53 ngày bị giam trong căn cứ cách mạng miền Nam

Posted on 23/07/202504/08/2025 By editor No Comments on Nhà báo Nhật trở về sau 53 ngày bị giam trong căn cứ cách mạng miền Nam

Akihiko Okamura

Thanh Trà dịch

Akihiko Okamura (1929 – 1985) là một trong những nhà báo ảnh danh tiếng nhất của Nhật Bản, từng tác nghiệp tại các vùng chiến sự ở Việt Nam, Ethiopia, Nigeria và Bắc Ireland. Năm 1965, trong khi tìm cách ghi lại hình ảnh về cuộc đấu tranh của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, ông bị hiểu nhầm là sĩ quan Mỹ và bị giam giữ suốt 53 ngày. Sau khi được thả, ông đã kể lại cuộc phiêu lưu kỳ lạ ấy trong bài “Back from a Vietcong hellhole in the jungle” đăng trên Tạp chí Life, số ra ngày 2/7/1965. Tạp chí Phương Đông trân trọng giới thiệu với bạn đọc bản dịch toàn văn bài báo của Akihiko Okamura cùng tranh minh họa của Sanford Kossin (phần lớn ảnh Okamura chụp được đã bị hỏng) và ảnh phóng sự của các nhà báo Pháp chụp những chiến sĩ MTDTGPMNVN hoạt động ở Tây Nguyên vào tháng 5/1965, đăng trên cùng số tạp chí Life.

Okamura đứng trước bức tranh minh họa cuộc gặp gỡ của ông với một chỉ huy của lực lượng cách mạng. Trong tranh, Okamura — tiều tụy và ốm yếu – được vẽ ở góc phải, đang đối diện với người bắt giữ đầy tự tin. Tranh minh họa: Sanford Kossin

Tôi vừa trải qua 53 ngày bên trong một trại giam tù binh của Việt Cộng. Cho đến khi họ tịch thu máy ảnh, nhốt tôi lại, khiến tôi bị đói và suy sụp tinh thần, tôi vẫn nghĩ rằng mình là một vị khách được chào đón, được mời đến để ghi lại hình ảnh quân nổi dậy khi họ hành động.

Nhưng tôi đã học được rất nhiều điều từ 53 ngày đó. Có lẽ bài học đọng lại lâu nhất là cuộc chiến ở Việt Nam vừa phi lý vừa tàn khốc. Dù tôi không có được những bức ảnh mà mình mong muốn, cuộc phiêu lưu bất đắc dĩ của tôi đã kết thúc bằng 10 giờ trò chuyện chưa từng có với người giữ vị trí số 2 trong hàng ngũ Việt Cộng, trung tâm quyền lực thực sự của phong trào nổi dậy – Huỳnh Tấn Phát, Phó Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam. Phát đã nói với tôi nhiều điều. Một số điều khiến tôi sửng sốt; nhiều điều có lẽ sẽ gây sốc cho người Mỹ.

Tôi muốn chụp ảnh Việt Cộng. Và ngay từ đầu, tôi đã có ý định gặp Chủ tịch Phát nếu có thể. Tôi biết mình có thể vào được khu vực do Việt Cộng kiểm soát; tôi đã từng làm điều đó trước đây (Life số ra ngày 12/6/1964).

Từ lâu, tôi đã học được rằng một nhiếp ảnh gia nên mang hành lý gọn nhẹ, ngoại trừ máy ảnh. Tôi mang theo sáu chiếc. Tôi cũng có 182 cuộn phim. Trong số ít quần áo dự phòng, tôi mang theo một cái mền dã chiến của Mỹ, mua ở chợ đen Sài Gòn (ở đó có thể mua bất cứ thứ gì). Tôi mang theo 3.000 đồng piastre (khoảng 22 đô la Mỹ theo tỷ giá chợ đen) và 10 đô la Mỹ. Tôi cũng đem theo hộ chiếu Nhật Bản và một lá thư từ Đại sứ quán, trong đó viết rằng chính phủ tôi sẽ rất cảm kích nếu tôi được giúp đỡ, nhưng cũng nhân tiện nói thêm rằng nếu tôi bị giết, họ cũng mong được nhận lại tư trang của tôi. Tôi có thẻ nhà báo và một giấy chứng nhận do chính quyền Sài Gòn cấp cho phép tôi chụp ảnh các trận chiến. Tôi cũng có thẻ nhà báo Phật giáo và thẻ nhà báo từ quân đội Mỹ.

Chiếc thẻ nhà báo của Mỹ sau này hóa ra lại là một trở ngại lớn, vì có người cho rằng nó chứng tỏ tôi là gián điệp. Ngoài ra, tôi còn có một dấu hiệu mà tôi hy vọng có thể bảo vệ mình: một lá cờ Nhật Bản gắn vào một que gỗ, cài vào cổ áo, trên đó có dòng chữ tiếng Việt: “Tôi là phóng viên Nhật Bản – Mr. Okamura. Xin đừng giết tôi”.

Những thứ cuối cùng tôi mang theo là một gánh nặng thêm, nhưng vì tôi không thích cảm giác buồn chán, nên tôi mang theo sách – một cuốn về nhiếp ảnh, một tiểu thuyết Trung Quốc dịch sang tiếng Nhật, và một cuốn cẩm nang về trồng cao su. Tôi cũng mang theo từ điển, vì dù tôi sử dụng tiếng Việt khá tốt, tôi nghĩ rằng mình luôn có thể cải thiện hơn nữa.

*

Vào một buổi sáng đầu tháng 4, lúc 6 giờ 30, tôi bắt chuyến xe buýt tuyến 13 đi về phía bắc ra khỏi Sài Gòn. Đó là một ngày đẹp trời – không khí trong lành, bầu trời xanh thẳm tuyệt đẹp. Trên xe toàn là phụ nữ. Dạo này có rất nhiều chuyến xe buýt rời Sài Gòn, nhưng hầu hết hành khách đều là phụ nữ, vì cả hai phe thường không nổ súng vào một chiếc xe đầy phụ nữ.

Cuộc chiến kỳ lạ này đã kéo dài gần 20 năm. Phần lớn đất nước là một vùng đất không người hoang tàn, hỗn loạn và khó hiểu, nơi những người dân thường phải vật lộn để sinh tồn giữa lúc quân chính phủ và quân nổi dậy liên tục giành giật quyền kiểm soát một đoạn đường, một ngôi làng, một thửa ruộng.

Tôi bắt đầu nhìn thấy những công cụ giết chóc khi đến làng Bến Cát, cách Sài Gòn 43 km. Ở đó, chính quyền đã đào nhiều trận địa pháo, gồm các lựu pháo 105 mm và 155 mm của Mỹ. Nhưng chỉ khoảng gần 500 mét tiếp theo, chúng tôi gặp 5 người đàn ông mang súng carbine, mặc quân phục xanh đậm của lính Sài Gòn. Họ chính là Việt Cộng, dù lúc đó tôi chưa nhận ra ngay. Họ ra hiệu cho xe buýt dừng lại. Tôi cố gắng nói chuyện với họ, nhưng họ chỉ trả lời ậm ừ. Đi thêm hơn 3 km, họ lại chặn xe buýt và lịch sự mời tôi đi cùng. Tôi đồng ý. Khi đó, tôi vẫn nghĩ họ là lính chính phủ, nhưng lời mời này khiến tôi tò mò. Tôi nghĩ có lẽ họ muốn nói riêng với tôi điều gì đó.

Nhưng ngay khi xuống xe, họ liền tuyên bố rằng họ thực ra là quân nổi dậy. Tôi vẫn chưa hoàn toàn tin, vì tôi từng nghe nói lính Sài Gòn đôi khi giả làm Việt Cộng để bẫy những kẻ thiếu cảnh giác.

Tôi nói với họ rằng tôi muốn đi đến vùng nông thôn, gặp gỡ người dân.

“Nếu anh muốn thấy cuộc sống của nhân dân thế nào, chúng tôi sẽ cho anh xem”, một người trong số họ nói. Họ chặn một chiếc xe tải đi ngang qua. Chúng tôi leo lên, và chỉ mới đi được chưa đầy 100 mét, tôi đã có một phen hoảng sợ. Chúng tôi bị một xe thiết giáp chở quân M-113 của Mỹ chặn lại, trên xe đầy lính chính phủ. Những người Việt Cộng đồng hành cùng tôi vẫn rất bình tĩnh. Hóa ra đám lính Sài Gòn chỉ đang tìm đồ ăn, và vì xe của chúng tôi chỉ chở lúa, họ để chúng tôi đi mà không nghi ngờ gì.

Không lâu sau, năm người Việt Cộng nhảy xuống xe và bảo tôi rằng ngôi làng phía trước có đầy lính Sài Gòn. Họ sẽ đi bộ vòng qua làng, còn tôi hãy cứ tiếp tục đi thẳng và gặp lại họ ở phía bên kia làng.

Tôi đang ngồi trong một quán ven đường trong làng, nhâm nhi bia, thì một đoàn dài xe tải của chính phủ, được cả lính Việt Nam và lính Mỹ hộ tống, đi ngang qua. Khi đoàn xe đi qua, lính bảo vệ lập tức xả đạn vào khu rừng hai bên đường theo phản xạ. Khi đoàn xe khuất bóng, khoảng 50 người Việt Cộng đột ngột từ trong rừng lao ra bằng xe đạp, bám theo để chắc chắn rằng đoàn xe đã thực sự rời đi.

Phải nói cuộc chiến này thật điên rồ.

Tôi nghĩ cảnh Việt Cộng tuần tra bằng xe đạp sẽ là một bức ảnh tuyệt vời, nên đưa tay lấy máy ảnh. Nhưng ngay lập tức, sáu lính Việt Cộng vây chặt lấy tôi.

“Tên này là Mỹ đen”, một người trong số họ nhận xét. Nghe có vẻ ngớ ngẩn, nhưng thực tế là rất ít nông dân Việt Nam từng nhìn thấy người da đen, mà da tôi khi ấy đen hơn bình thường. Đúng lúc đó, năm người Việt Cộng đi cùng tôi trên xe tải lúc trước kịp xuất hiện và lại bảo vệ tôi.

Tôi dành ba ngày tiếp theo trong những ngôi làng cách Sài Gòn khoảng 70 km. Chúng tôi ngủ trong nhà dân và khu nhà của công nhân đồn điền cao su. Ở một làng nọ, một chính ủy Việt Cộng xuất hiện và kết thân với tôi. Anh ta là một nhân vật thú vị – đội mũ cao bồi, đeo còi cảnh sát trên cổ, mặc áo cam, đeo thắt lưng đựng bi đông nước của Mỹ và mang theo một khẩu .45 của Mỹ. Anh ta cho tôi thấy cách mà Việt Cộng – bất cứ khi nào quân chính phủ vắng mặt – tuần tra trên Quốc lộ 13 bằng một chiếc xe jeep mới đánh cắp từ chính phủ. Họ chặn mọi xe tải đi qua, và nếu hàng hóa trên xe là thứ họ cần, họ sẽ thu rồi chất lên xe tải của mình, chiếc xe luôn chờ sẵn trong rừng. Họ cũng lập các trạm kiểm soát và thu “thuế” từ các phương tiện qua lại.

“Nếu hàng thuộc về thương gia, chúng tôi sẽ trả tiền”, Áo Cam nói. “Họ chẳng quan tâm bán cho ai. Nhưng nếu đó là hàng của chính phủ, chúng tôi sẽ tịch thu”.

Anh ta để tôi chứng kiến cảnh Việt Cộng cướp chín chiếc xe tải của chính phủ. “Họ cáo buộc chúng tôi nhận tiếp tế từ Hà Nội. Nhưng như anh thấy đấy, chúng tôi có thể tự xoay sở rất tốt ngay tại đây”, anh ta nói, giọng đắc ý.

Một buổi sáng, tôi trò chuyện với một lính Việt Cộng đang đạp xe, mang theo vũ khí và một đứa trẻ ngồi đằng sau. “Tôi phải đi mua mấy thứ”, anh ta nói. “Tôi chỉ có hôm nay được ở với gia đình, rồi tôi phải quay lại Sài Gòn làm việc”. “Anh làm nghề gì?”, tôi hỏi.

“Tôi là một viên chức chính phủ”. Tôi sững sờ. “Nhưng anh nói anh là Việt Cộng? Làm sao anh có thể là cả hai?” “Đơn giản thôi”, anh ta đáp. “Khi bên này cần tôi làm gì đó, tôi xin nghỉ phép vài ngày”.

Tôi liên tục nói với tất cả những người Việt Cộng mà tôi gặp rằng tôi rất muốn chụp ảnh cuộc chiến của họ. Họ bảo rằng điều đó không sao, nhưng họ phải báo cáo qua các cấp cho đến khi lên đến được Ủy ban Trung ương. Tôi chờ đợi, hy vọng và không chụp bất kỳ bức ảnh nào vì không muốn gây phản cảm quá sớm hay làm ảnh hưởng đến cơ hội được phép tác nghiệp chính thức.

*

Hầu hết những người Việt Cộng mà tôi gặp đều thân thiện, dễ mến như bao người Việt Nam khác. Nhưng dù vậy, tôi luôn ý thức rõ rằng một cuộc chiến đang diễn ra. Quân chính phủ đi qua trước, rồi đến Việt Cộng. Tôi liên tục nghe thấy những tiếng rền vang nhức nhối của pháo hoặc bom đạn.

Có lần, chiến tranh tiến đến gần tôi hơn mức có thể chịu đựng. Một buổi sáng, tôi đang chơi với lũ trẻ trong một ngôi nhà ven đường thì đột nhiên tiếng súng vang lên ngay bên ngoài. Tôi bật dậy ngó ra. Một khẩu súng tự động nhả đạn về phía tôi, đạn xuyên qua tường. Tôi lập tức lao xuống hầm trú bom. Mỗi ngôi nhà Việt Nam đều có một hầm như vậy được đào ngay dưới nền đất. Lũ trẻ, khôn ngoan hơn tôi, đã chui xuống từ trước. Chúng tôi kéo nắp hầm lại, nhưng ngay sau đó, có người hét lên: “Ai dưới đó?” Mẹ của lũ trẻ đáp: “Chỉ có gia đình tôi thôi!” Dù vậy, người phía trên vẫn xả một loạt đạn xuống hầm, nhưng không gây hại gì vì hầm nào cũng được đào theo góc để làm chệch hướng đạn. Bỗng người phụ nữ phát hiện thiếu một đứa con. Bất chấp tiếng súng, cô lao ra ngoài, vừa chạy vừa gào tên con. Cô tìm thấy đứa bé và đưa nó xuống hầm ngay trước khi ai đó ném một quả lựu đạn vào nhà. Lựu đạn phá hỏng bàn ghế nhưng không chạm đến chúng tôi dưới hầm.

Tôi lại bước ra ngoài. Hóa ra cuộc đụng độ bắt đầu khi một nhóm lính chính phủ đi trên một chiếc xe buýt chở dân thường đến thị trấn và bắn vào các ngôi nhà để răn đe. Dân làng bảo tôi rằng họ thường làm vậy. Khi ấy, một vài Việt Cộng trong rừng bắt đầu bắn trả.

Những hành khách bình thường trên xe buýt vội vàng tìm chỗ trú ẩn, và khi tôi chui ra khỏi hầm, họ vẫn đang co rúm dưới gầm xe. Một con bò bị trúng đạn lạc nằm chết giữa đường, một người lính chính phủ bị thương. Tiếng súng vẫn còn đó, nhưng một số lính chính phủ đã bắt đầu uống bia trong cửa hàng của làng và nhét đầy những món đồ có ích vào bao tải.

Okamura chứng kiến lính Việt Nam Cộng hòa xả súng vào rừng để kiềm chân quân cách mạng trong khi một số người khác kéo xác con bò lên thùng xe tải. Các hành khách xe buýt trú ẩn dưới gầm xe (bên trái). Tranh minh họa: Sanford Kossin

Lúc đó, tình cờ có một chiếc xe tải dân sự chạy qua, và lính chính phủ liền trưng dụng nó. Họ chất lên xe những món đồ cướp được cùng người lính bị thương, sẵn sàng lên đường. Nhưng rồi ai đó chợt nảy ra một ý. Họ lại nhảy xuống. Trong khi hai người lính xả súng vào rừng để kiềm chân Việt Cộng, khoảng chục người khác hì hục kéo xác con bò lên thùng xe. Có lẽ đó sẽ là bữa tối của họ.

*

Một hai ngày sau, Áo Cam nói rằng sự có mặt của tôi khiến anh ta không yên tâm. Anh ta nghĩ đã đến lúc tôi nên từ bỏ ý định của mình hoặc đi sâu hơn vào vùng thực sự do Việt Cộng kiểm soát. Tôi quyết định đi tiếp. Anh ta đưa tôi đến gặp một bà cụ 73 tuổi, lưng còng, răng đen nhánh vì nhai trầu. Anh ta nói: “Đi theo bà ấy”. Bà vội vã rẽ vào một lối mòn trong rừng, tôi lặng lẽ theo sau.

Bà làm tôi thấy xấu hổ. Bà không cho tôi nghỉ một giây phút nào. Bà cứ đi mãi – băng qua rừng, đồn điền, ruộng lúa, lội qua suối – chẳng nói một lời, chỉ thỉnh thoảng ngoái đầu vẫy tôi đi tiếp. Bà đi mải miết đến mức tôi muốn rụng rời cả chân. Mỗi khi có máy bay trinh sát L-19 của chính phủ lượn qua, bà liền lao ngay vào bụi rậm. Lúc chạng vạng, chúng tôi đến một đồn điền nhỏ, và bà giao tôi cho bảy người Việt Cộng, rồi lặng lẽ quay về, chẳng nói một lời.

Người phụ nữ gầy guộc dẫn đường cho Okamura đến gặp lực lượng Giải phóng, không ngừng thúc giục người nhiếp ảnh đã rã rời tiếp tục bước đi. Tranh minh họa: Sanford Kossin

Những người Việt Cộng mới này có vẻ thân thiện. Nhưng đến tối hôm sau, có thêm bốn người nữa xuất hiện. Nhóm này có vẻ cảnh giác hơn.

Bốn người mới ra lệnh cho tôi đứng cách xa để không nghe được cuộc nói chuyện. Họ ngồi xổm dưới tán cây, trao đổi với bảy người ban đầu một lúc lâu. Cuối cùng, người trưởng nhóm đến nói với tôi: “Anh ăn đi. Chúng ta sắp khởi hành”. Tôi nghĩ, cuối cùng thì cũng vào việc rồi.

Lúc chúng tôi chuẩn bị lên đường, tôi thấy biết ơn khi một trong bốn người đã mang ba lô hộ tôi. Nhưng tôi lại hoang mang lo lắng khi người trưởng nhóm lấy túi máy ảnh của tôi, buộc lên một chiếc xe đạp rồi biến mất, chỉ để lại một câu: “Tôi sẽ chở máy ảnh giúp anh”. Dù vậy, trong tình huống này, tôi biết mình không thể cãi lại.

Chúng tôi bắt đầu đi bộ. Lúc đó gần tối, 6:45 giờ Sài Gòn. Tôi chưa biết rằng, từ giây phút này trở đi, tôi sẽ sống theo giờ Hà Nội – sớm hơn một tiếng.

Đó là một đêm trăng đẹp – chúng tôi xuyên rừng rồi băng qua những đồng lúa. Có lúc tôi nghe tiếng leng keng và nhìn thấy bóng người đang nhặt nhạnh thứ gì đó, cùng những con trâu được buộc vào xe kéo. Tầm 2 giờ sáng, tôi tò mò hỏi họ đang làm gì. Một người áp tải tôi trả lời: “Nông dân đang thu gom vỏ bom napalm của Mỹ. Họ chỉ có thể làm việc này vào ban đêm, vì ban ngày, máy bay L-19 sẽ phát hiện ra. Họ bán kim loại này cho các lái buôn phế liệu trong thị trấn với giá 16 piastres một ký. Chúng tôi dùng kim loại này để làm dụng cụ bếp và nhiều thứ khác”.

Đến 3 giờ sáng, chúng tôi tới một con đường cát đầy những vệt bánh xe tải hằn sâu. Chúng tôi tiếp tục rẽ vào một đường mòn hẹp quanh co. Rồi trong một khoảng đất trống dưới ánh trăng, chúng tôi đến trước một hàng rào gỗ với cổng dây thép gai. Một trong những người áp tải tôi vỗ tay dứt khoát ba lần làm tín hiệu. Chúng tôi tiếp tục tiến vào khu rừng rậm hơn cho đến khi gặp ba cây cầu gỗ thô sơ. Một khúc gỗ dưới chân tôi nứt ra. Tôi loạng choạng suýt ngã. Một người áp tải tóm lấy tay tôi và quát khẽ: “Cẩn thận! Dưới này là bãi mìn đấy”.

Băng qua những cây cầu, chúng tôi đến một căn lán lợp tranh, mái rộng và thấp, nền đất đắp cao, không có tường.

Một người Việt Cộng cao to, đeo khẩu .45 của Mỹ, bước vào và nói: “Anh sẽ ở đây hai hoặc ba ngày. Đi theo tôi”. Anh ta dẫn tôi đến một căn lán khác nhỏ hơn, hình chữ L, cũng lợp tranh và không có tường. Bên trong có năm người Việt Cộng khác.  Họ đã lấy hết đồ trong ba lô của tôi ra, vứt tứ tung trên sàn. Họ thì thầm với nhau.

Tôi ướt, mệt, khổ sở. Chúng tôi đã đi bộ gần chín tiếng đồng hồ. Tôi nhặt một bộ đồ lót khô, thay ra và hỏi liệu tôi có thể ngủ không. Họ chỉ vào một trong hai chiếc giường, cao khoảng 90 cm, giát làm bằng tre. Tôi trải mền dã chiến ra và nằm xuống. Đó sẽ là chiếc giường của tôi trong suốt 53 ngày. Tôi sẽ không bao giờ quên hay tha thứ cho cái giường đó. Tôi cao 1 mét 70, nhưng chiếc giường dài chưa tới 1 mét rưỡi. Ít điều gì khó chịu bằng việc bị cạnh tre cứa vào ống chân trên mắt cá 10 cm, đêm này qua đêm khác.

*

Tôi tỉnh dậy giữa những tiếng nói xung quanh, và khi dần hiểu ra ý nghĩa của chúng, tôi cứng người vì sợ. “Tên này là sĩ quan Mỹ – có thể là Trung úy hoặc Đại úy”. Giọng nói thứ nhất.

“Đế quốc Mỹ”. Giọng nói thứ hai, đầy kinh ngạc và căm ghét. 

“Chỉ có sĩ quan quân đội Mỹ mới mang loại giày này và có thứ vải như thế này”. Giọng nói thứ ba. Tôi đi giày leo núi của Nhật, nhưng chiếc mền dã chiến mua từ chợ đen lại làm từ vải dù chần bông của Mỹ.

Tôi không biết có nên cho họ thấy mình đã nghe được cuộc nói chuyện hay giả vờ chưa tỉnh giấc. Lần đầu tiên, tôi thực sự sợ hãi. Tôi quyết định. Tôi trở mình, duỗi rộng hai tay, ngáp thật to rồi kéo chiếc mền khỏi đầu. Bảy người Việt Cộng, tất cả đều mang vũ khí Mỹ, đang đứng quanh tôi.

Họ vẫn chưa nói với tôi rằng tôi là tù nhân. Mà về sau cũng không ai nói.

Viên sĩ quan Việt Cộng, người đã lấy máy ảnh của tôi, bước vào lán và nói rằng mình được Tỉnh ủy Mặt trận cử đến. Anh ta không còn thân thiện nữa mà trở nên lớn tiếng, dọa nạt, kiêu căng và không chịu tin bất cứ điều gì tôi nói. Anh ta tra hỏi tôi đủ thứ có thể nghĩ ra: tên, tuổi, nghề nghiệp, địa chỉ ở Sài Gòn và Tokyo, quan điểm chính trị, tôn giáo, học vấn, tình trạng hôn nhân, tên của những người bạn Mỹ và Nhật ở Sài Gòn. Anh ta tỏ vẻ coi thường khi biết rằng ở tuổi 36, tôi vẫn chưa lập gia đình. Tôi nói rằng hôn nhân là lựa chọn của mỗi người. “Không phải ở đây”, anh ta đáp. “Ở đây, sinh con là nghĩa vụ. Chúng tôi cần những thế hệ tiếp theo để giành chiến thắng trong cuộc chiến này”.

Cuối cùng, anh ta lục soát đồ đạc của tôi, lấy đi con dao hướng đạo sinh, những cuốn sổ trắng, bút bi, toàn bộ giấy tờ và, tệ nhất, là những cuốn sách của tôi.

“Tại sao?” Tôi hỏi.

“Quy định”, anh ta đáp.

“Khi nào tôi được trả lại giấy tờ?”

“Ngày mai”.

“Tôi phải ở đây bao lâu?”

“Hai hoặc ba ngày”.

Hóa ra anh ta đã nói dối. Tôi bắt đầu làm quen với nhịp sống trong trại giam của Việt Cộng. Đầu tiên là thức ăn. Gần như chỉ toàn cơm – nửa sống nửa chín, lẫn cả vỏ trấu như gạo hoang, đầy sạn và cả những con mọt đã nấu chín, trông như nho khô. Có lẽ tôi nên biết ơn chúng vì đó là nguồn đạm duy nhất tôi có. Dụng cụ ăn uống của tôi là những chiếc muỗng được rèn từ vỏ bom napalm của Mỹ. Nước uống cũng nguy hiểm. Dù đã được đun sôi, nó vẫn rất tệ. Tôi bị đau quặn ruột và phải vật vã gần một tuần trong nhà vệ sinh. Thời gian ở với Việt Cộng đã khiến tôi sụt tổng cộng 10 kg.

Tôi luôn bị canh gác. Những người lính gác đều có vũ trang, nhưng họ khá bất cẩn khi để vũ khí nằm lăn lóc. Tôi đoán họ biết họ chẳng cần lo lắng. Tôi chẳng thể đi đâu cả, bởi trong khu rừng ngoài kia là bãi mìn và 16 lớp dây thép gai.

Một trong những người canh giữ tôi đầu tiên là một cậu trai trẻ khá ba hoa. Tôi đưa cậu ta vài điếu thuốc, và cậu ta muốn trò chuyện. Nhưng tôi quyết định không trả lời. Tôi nghĩ rằng đã đến lúc cần thận trọng hơn về những gì mình nói. Việc tôi từ chối nói chuyện khiến tay lính gác trẻ khó chịu. Cậu ta lẩm bẩm: “Vấn đề của người Mỹ các anh là không chịu cố gắng học ngôn ngữ của chúng tôi”. Rồi cậu ta lẩm bẩm: “Tên này ngu thật, giống như mấy thằng Mỹ khác ở đây”.

“… ở đây”. Đó là manh mối đầu tiên cho tôi biết rằng còn có người Mỹ bị giam trong trại. Sau đó, tôi nhận thấy thêm những dấu hiệu khác. Một lần, tôi nghe thấy tiếng hát của một người Mỹ vọng ra từ nhà tắm. Một lần khác, vài người lính đi ngang qua lỡ miệng nói rằng có sáu tù binh Mỹ cùng với hai người Úc và một người Philippines. Họ khinh thường một tù binh Mỹ, vì như họ kể lại, anh ta đã bị thương và đang khóc lúc bị bắt. Tôi chưa từng thấy các tù binh khác; điều đó không được phép.

Người giam giữ Okamura và cũng là bạn cùng lán — một chính ủy của lực lượng Giải phóng — nhảy bật dậy và, dưới ánh đèn pin của Okamura, dùng gậy đập chết một con rắn độc bò vào lán. Tranh minh họa: Sanford Kossin

“Chủ nhà” của tôi là chính ủy địa phương, cũng là người đứng đầu trại. Trong suốt thời gian bị giam giữ, tôi phải sống cùng anh ta trong căn lán này. Anh ta là một kẻ cộc cằn, hiếm khi nói chuyện với tôi, trừ khi cần thách thức. Chỉ duy nhất một lần tôi thấy anh ta thực sự ra tay hành động. Anh ta có một con gà mái vừa ấp nở một lứa gà con. Anh ta buộc con gà mẹ vào chân giường bằng một sợi dây. Ban đêm, anh ta sẽ úp một cái rổ lên đàn gà con. Một đêm nọ, có một tiếng động kinh khủng khiến tôi tỉnh giấc. Tôi bật đèn pin lên. Viên chính ủy bật dậy, chộp lấy một cây gậy và bắt đầu đập mạnh thứ gì đó trên nền đất. Đó là một con rắn dài, thân mảnh, có vằn ngang và đầu dẹt. Tôi không biết đó là loài gì, nhưng khi chính ủy nhặt con rắn chết lên và mang ra nhà vệ sinh, anh ta bảo rằng nó cực kỳ độc.

Thời gian đầu khi tôi bị giam giữ, viên chính ủy hỏi lý do tại sao tôi lại đến khu vực do Mặt trận kiểm soát. Tôi trả lời rằng tôi có sáu yêu cầu: 1) gặp một quan chức cấp cao của Mặt trận, tốt nhất là Phó Chủ tịch Phát, 2) phỏng vấn một tù binh Mỹ bất kỳ, 3) được phép chụp ảnh một ngôi làng thuộc quyền kiểm soát của Mặt trận, 4) có bằng chứng trực quan (nếu có) về việc quân Mỹ sử dụng khí độc, 5) bằng chứng (nếu có) về sự tham gia của người nước ngoài giúp đỡ Mặt trận, và 6) cơ hội phỏng vấn một nhà báo của Mặt trận.

“Chúng tôi không cần những người như anh”, anh ta nói, “nhưng tôi sẽ gửi yêu cầu này lên cấp trên”.

Chắc hẳn anh ta đã làm vậy. Vào ngày thứ 21, hai cán bộ chính trị từ Tỉnh ủy đến thẩm vấn tôi. Họ hỏi lại tất cả những câu hỏi cũ và thêm một số câu mới.

“Tại sao anh mang thẻ nhà báo của Mỹ?” Tôi trả lời rằng tất cả phóng viên ở Sài Gòn đều phải có thẻ này. “Làm gì có chuyện một phóng viên thực thụ lại cần đến sáu chiếc máy ảnh”. Câu trả lời duy nhất tôi có thể nghĩ được là họ nên gặp một số đồng nghiệp của tôi – có người còn mang theo đến 20 chiếc. “Ai lại cần đến 182 cuộn phim?” Tôi giải thích rằng đôi khi vì phải thay đổi qua lại giữa các máy ảnh nên chúng tôi chỉ dùng 2 hoặc 3 tấm trên một cuộn phim.

“Lãng phí quá!”, một trong hai người thốt lên.

Tôi bắt đầu bực bội. “Tại sao tôi lại bị đối xử tệ như vậy?”

“Đang có chiến tranh mà”, họ đáp. Rồi họ bỏ đi, nhưng hóa ra, hạt giống đã được gieo xuống cho ít nhất một phần những điều tôi tìm kiếm.

Bữa trưa của các chiến sĩ du kích. Ảnh: Jean-Pierre Moscardo và Gerald Roubion

Trước đây tôi đã từng biết đến rừng rậm Việt Nam, nhưng nơi tôi đang sống bây giờ thực sự kinh khủng – dày đặc hơn, ẩm ướt hơn, và còn tệ hơn nữa vì sự khốn khổ ngao ngán của cảnh giam cầm. Trong bóng tối – giữa lớp cây bụi mục rữa, bốc mùi, chen chúc giữa những thân cây lớn cao hơn trăm feet (hơn 30 mét) – mọi thứ lúc nào cũng ẩm ướt. Khi mùa mưa kéo dài, không khí lại càng ẩm ướt. Và trời mưa. Mưa như thể đức Phật vừa làm đổ cả bầu trời xuống. Ban ngày nóng đến mức nghẹt thở. Ban đêm, tôi lại rét run. Tôi cứ nằm đó mà run lẩy bẩy suốt đêm. Đến sáng, tôi lại tìm một tia nắng le lói, ngồi thu mình vào đó để chờ cơ thể ấm lên. Tôi vẫn không hiểu nổi làm sao con người có thể chiến đấu hiệu quả trong những tháng mưa này.

Không có sách, tôi cần thứ gì đó để giải khuây. Vào buổi sáng, tôi bắt muỗi khi chúng còn lạnh và bay chậm. Muỗi rừng là những con quái vật thực thụ. Có ngày tôi giết được tận 67 con. Mỗi lần bắt được một con, tôi lại đem cho kiến ăn. Viên chính ủy thấy thật ngớ ngẩn và hỏi tôi làm vậy để làm gì. Tôi trêu anh ta một chút, vì anh ta chưa bao giờ tin tôi là người Nhật. Tôi nói: “Tôi làm thế vì lũ kiến biết ơn. Chúng nói: Cảm ơn ông, phóng viên người Nhật!”

Rồi còn lũ bọ cạp. Tôi lần đầu gặp chúng vào đêm thứ ba, khi tôi định trải lại chiếc chiếu rơm mỏng trên giường tre. Một thứ gì đó đâm mạnh vào đầu ngón tay tôi, khiến nó sưng lên suốt ba ngày. Kẻ tấn công là một con bọ cạp dài sáu inch (hơn 15 cm). May mà nó là loại lớn. Người ta nói rằng những con nhỏ mới độc chết người. Thế là tôi thêm bọ cạp vào cuộc chiến của riêng mình ở Việt Nam. Tôi giết được nhiều nhất 15 con trong một ngày.

Chúng khiến tôi sợ hãi hơn cả những trận pháo kích và ném bom, dù bản thân những điều đó cũng đã quá kinh hoàng. Cả ngày lẫn đêm, từng loạt đạn pháo bay rải rác về phía khu trại, thường rơi xuống khu vực cách đó chừng 500 đến 1.000 yard (450 – 900 mét). Qua những khoảng trống trong rừng, tôi có thể nhìn thấy máy bay Skyraider và tiêm kích phản lực của Mỹ thực hiện các đợt ném bom hoặc bắn phá, và nghe thấy tiếng nổ vang lên. Mỗi tối, đúng 8 giờ, pháo binh lại khai hỏa. Những tiếng nổ dường như chẳng làm quân Việt Cộng bận tâm, nhưng tôi thì thú thật là khá lo. Mỗi lần thấy tiếng nổ dường như đến gần hơn, tôi liền lao ngay vào đường hầm trú ẩn của căn lán. Cư dân thường trực ở đó gồm một con chuột to, một con dơi nhỏ, vài con bọ cạp và dế.

Trong khi đó, tôi phát hiện ra rằng trại giam cũng có một cửa hàng quân nhu thô sơ. Điều đó giúp cuộc sống dễ chịu hơn đôi chút. Tôi nhờ một người lính đi mua thuốc lá Campuchia và sữa đặc Mỹ.

Một chiến sĩ du kích, được trang bị ống nhòm dã chiến và súng tiểu liên Thompson thu được của Mỹ, đang ngồi canh gác trong rừng già Tây Nguyên. Ảnh: Jean-Pierre Moscardo và Gerald Roubion

Sang đến ngày thứ 36, tôi linh cảm có chuyện gì đó sắp xảy ra. Một sĩ quan Việt Cộng lạ mặt đến, hỏi rất nhiều về tình trạng sức khỏe và cách tôi bị đối xử. Không lâu sau, cậu lính gác trẻ hay chuyện bảo tôi rằng viên sĩ quan này đã mắng viên Chính ủy cục súc vì đã báo cáo lên cấp trên rằng tôi là gián điệp. Viên sĩ quan khẳng định không có bằng chứng nào cho việc đó.

Rồi đến ngày thứ 43. Viên Chính ủy cùng một người lính đến và bắt đầu dọn dẹp căn lán. Họ lấy giẻ lau bàn, nhưng làm lem nhem đến mức tôi phải tự lau lại.

Ngay sau đó, tôi được một nhóm bốn người đến thăm. Người có phong thái lãnh đạo rõ ràng nhất là một người đàn ông thấp, rắn rỏi, mảnh khảnh, với đôi mắt sắc và hàng ria mép mỏng. Tóc ông ta cắt ngắn – giống tôi, nhưng khác với phần lớn người Việt. Ông mặc áo sơ mi và quần kaki sạch sẽ, được ủi thẳng tắp, may rất khéo bằng vải tốt. Nhưng dưới chân, ông ta vẫn mang đôi “dép lốp Hồ Chí Minh” thông thường của nông dân, cắt từ lốp xe cũ.

Ông bắt tay tôi và hỏi thăm sức khỏe.

“Không tốt lắm, cũng không tệ lắm – nhưng tôi là một tù nhân ở đây”, tôi bực bội nói. Tôi đã quá chán ngán với cảnh bị hỏi mà chẳng nhận được câu trả lời nào. Tôi quyết định lớn tiếng với ông ta một chút.

“Các ông vẫn nghĩ tôi là gián điệp sao?”

“Anh có bị đối xử tệ không?”

“Bị cướp, bị bỏ đói và bị lừa dối”, tôi đáp. Cơn giận trong tôi đang dâng lên.

Một người lính vỗ vai tôi. “Đừng kích động như vậy”, anh ta nói. “Đây là quan chức cấp cao thứ hai trong Mặt trận Dân tộc Giải phóng”.

*

Nếu điều này là thật, tôi biết người đó hẳn là Huỳnh Tấn Phát, kiến trúc sư trở thành chính trị gia cách mạng và là chiến lược gia của Mặt trận Dân tộc Giải phóng. Tôi hỏi xem phỏng đoán của mình có đúng không.

“Tôi là Phát”, ông nói.

Thật khó để tôi tin được điều này. Bằng cách nào đó, thông điệp của tôi đã đến được với Phát và ông đã phản hồi. Tại sao? Và tại sao lại mất nhiều tuần như vậy? Phát nói rằng do các sự kiện xảy ra dồn dập, bây giờ ông mới có dịp đến gặp tôi.

Chúng tôi trò chuyện đến tận 10 giờ đêm hôm đó, gặp lại nhau lúc 6 giờ sáng hôm sau để ăn sáng, nói chuyện đến trưa, rồi lại trò chuyện một lần nữa trước khi ông rời đi.

Đêm đầu tiên, chúng tôi trò chuyện trong khi chờ bữa tối – lần đầu tiên có thêm thịt gà cùng với cơm. Tôi kể với Phát về những gì họ đã cho tôi ăn.

“Anh vẫn còn may mắn”, ông nói. “Chúng tôi dành 5 piastre (6½ xu) mỗi ngày để lo thực phẩm cho anh. Còn lính của chúng tôi chỉ được 2”.

“Ông có phải là người cộng sản không?”, tôi hỏi.

“Không. Tôi là một người theo chủ nghĩa xã hội”.

Với tôi, giọng điệu của ông nghe có vẻ chân thành. Tôi tin ông. Nhưng trước đó, phần lớn những gì ông nói chỉ là một bài thuyết giảng chống thực dân theo khuôn mẫu. Tôi hy vọng mình sẽ không phải nghe thêm một bài thuyết giáo rập khuôn – cũng như tôi từng mong người Mỹ đừng vội kêu “Cộng sản!” mỗi khi họ nghi ngờ hoặc không thích điều gì. Nhưng những gì Phát nói không hoàn toàn sáo rỗng.

“Người Mỹ đang ném bom miền Bắc Việt Nam vì họ không còn việc gì khác để làm. Điều đó không ảnh hưởng gì đến chúng tôi”, Phát nói.

“Nhưng tôi đã nghe về “đường mòn Hồ Chí Minh” – và việc các ông nhận tiếp tế từ miền Bắc”, tôi nói.

“Anh không hiểu về hậu cần tiếp tế”, Phát đáp. “Đúng là nếu chúng tôi chỉ cần tiếp tế cho các đơn vị nhỏ, thì có thể dễ dàng lấy đủ từ Hà Nội. Nhưng chúng tôi phải lo tiếp tế cho một triệu người – lính của chúng tôi và gia đình họ. Chúng tôi tự trồng lương thực [tôi đã biết đó là thứ lương thực tệ như thế nào]. Chúng tôi có kho quân giới trong rừng, nơi chúng tôi tự sản xuất vũ khí – thô sơ nhưng sử dụng được”.

“Tôi nghĩ các ông cũng lấy được hàng từ quân đội Sài Gòn”, tôi nói.

Phát ngửa đầu cười lớn, “Chúng tôi chiếm lấy chúng”.

Chiến sĩ nằm trên võng may bằng vải dù của Mỹ đang đọc sách về chiến thuật du kích. Ảnh: Jean-Pierre Moscardo và Gerald Roubion
Các chiến sĩ du kích đi dép cao su làm từ lốp xe Mỹ, thu được từ xe tải quân sự của quân đội Sài Gòn, đang ghi nhật ký về hoạt động của đơn vị mình. Ảnh: Jean-Pierre Moscardo và Gerald Roubion

Tôi hỏi về cách họ đối xử với tù binh Mỹ.

“Nếu họ bị thương, chúng tôi sẽ chữa trị trước. Chúng tôi giữ họ trong những căn lán như thế này, cho họ ăn uống như anh. Chúng tôi không có điều kiện để đối xử đặc biệt”.

“Các ông có tẩy não họ không?”

Ông không hề lúng túng khi nghe câu hỏi này. “Có”, Phát đáp. “Chúng tôi thường xuyên nói chuyện với họ, cố gắng thuyết phục họ rằng họ đang bị lợi dụng như những con tốt của chủ nghĩa đế quốc”.

Tôi hỏi về việc thả tù binh.

“Từ giờ chúng tôi sẽ không thả tù binh nữa. Trước đây, thỉnh thoảng người Mỹ cố gắng dàn xếp trao đổi tù binh qua một nước thứ ba. Nhưng bây giờ chúng tôi sẽ không nói chuyện về trao đổi, trừ khi người Mỹ trực tiếp đến gặp chúng tôi”. Tôi hỏi liệu nguyên tắc này có áp dụng với tù binh của chính phủ Việt Nam Cộng hòa không.

“Không, đây là việc giữa chúng tôi và người Mỹ. Sài Gòn chỉ là một con rối. Và giờ đây khi Mỹ đang gửi hàng ngàn quân sang, sẽ có rất nhiều tù binh Mỹ”.

Dù có thật lòng hay không, Phát tỏ rõ thái độ khinh thường người Mỹ.

“Họ là những kẻ hèn nhát”, ông tuyên bố. “Rõ ràng là thế. Người Pháp từng dẫn đầu các binh sĩ Việt Nam, nhưng người Mỹ lại đẩy họ lên trước rồi đi đằng sau”.

Tôi hỏi về chiến thuật và chiến lược.

“Trước đây, chúng tôi dựa vào chiến thuật từ cuốn “Chiến tranh Nhân dân, Quân đội Nhân dân” [của Võ Nguyên Giáp, vị tướng Bắc Việt đã đánh bại quân Pháp]. Nhưng bài học của ông Giáp giờ đã cũ rồi. Thời thế đã thay đổi. Vũ khí mới của Mỹ rất khác. Ở Điện Biên Phủ, chúng tôi đánh Pháp bằng dây thừng và gậy gộc. Nhưng bây giờ, trừ xe tăng và máy bay, chúng tôi có mọi thứ mình cần. Vũ khí của chúng tôi tốt ngang của địch. Thực tế, chúng giống nhau, vì phần lớn vũ khí là do chúng tôi lấy được từ phía bên kia”.

“Vậy nên, chúng tôi không còn đánh du kích chớp nhoáng nữa. Bây giờ, chúng tôi tấn công quy mô lớn để tiêu diệt toàn bộ đơn vị địch. Những cuộc tấn công này rất hiệu quả trong mùa mưa”.

Ít nhất, về điểm này, ông không hề nói dối. Cuộc tấn công lớn đầu tiên của Việt Cộng bắt đầu ở Ba Gia ngay trước ngày tôi trở về Sài Gòn.

Khi chúng tôi nói chuyện, thỉnh thoảng vẫn có tiếng nổ vang lên cách đó không xa. Phát không mấy để tâm, chỉ nhận xét rằng quân của ông ít chịu tổn thất từ các cuộc ném bom.

“Bây giờ, chúng tôi đang dựng các mục tiêu giả để họ lãng phí bom. Việc này rất đơn giản và hầu như không tốn gì cả. Chúng tôi có thể dựng khung một căn nhà giả chỉ trong một đêm”.

Tôi hỏi Phát có bao nhiêu quân, nhưng ông né tránh: “Nếu anh biết, anh sẽ ngạc nhiên đấy” (tôi ước tính Việt Cộng có khoảng 200.000 quân chính quy và 200.000 du kích bán thời gian).

“Các ông có định đề nghị Trung Quốc hỗ trợ ở quy mô lớn không?”, tôi hỏi.

“Chúng tôi không có ý định xin viện trợ từ bên ngoài. Chúng tôi có mọi thứ mình cần. Hơn nữa, chúng tôi lại càng mạnh hơn mỗi khi có thêm một cuộc đảo chính và thêm nhiều sĩ quan quân đội Sài Gòn bị tống vào tù hoặc trốn khỏi đất nước”.

Các chiến sĩ du kích đeo bao gạo may bằng vải dù Mỹ và súng tiểu liên của Pháp từ Chiến tranh Đông Dương. Ảnh: Jean-Pierre Moscardo và Gerald Roubion

*

Vấn đề viện trợ từ bên ngoài cho Việt Cộng liên tục được đưa ra bàn luận. Tôi nhiều lần nhận thấy rõ câu hỏi này khiến Phát không thoải mái, và ông cực lực phủ nhận khả năng Việt Cộng sẽ tìm kiếm sự hỗ trợ quy mô lớn từ bên ngoài. Tôi tự hỏi liệu có phải ông đang cố đánh lạc hướng sự nghi ngờ rằng lực lượng nổi dậy đang nhận viện trợ, hay trong thâm tâm, đó là nỗi lo sợ rằng chủ nghĩa đế quốc Mỹ ở Việt Nam có thể bị thay thế bởi một chủ nghĩa đế quốc khác khó loại bỏ hơn nhiều. Suy cho cùng, có lẽ Phát vẫn ghi nhớ rằng đất nước ông từng chịu ách đô hộ của Trung Quốc hơn 1.000 năm.

“Nếu Việt Cộng giành được thắng lợi mà không có ai giúp đỡ thì sao?”, tôi hỏi. “Ông biết đấy, người Việt ở Sài Gòn thực sự ghét Việt Cộng. Nếu các ông tiếp quản, làm sao có thể mong họ chấp nhận?”

“Đúng vậy”, Phát thừa nhận. “Nhưng chúng tôi đều là người Việt Nam. Và cuối cùng, bản chất con người là quay lưng lại với những kẻ hợp tác với quân xâm lược. Khi lựa chọn không còn là giữa Sài Gòn và chúng tôi, mà là giữa chúng tôi và người Mỹ, họ sẽ đứng về phía chúng tôi”.

Phát khuyên tôi nên ngừng đưa tin về cuộc chiến, ông nói rằng tôi sẽ bị giết nếu tiếp tục.

Tôi nói: “Ông nói về nhân đạo, nhưng mùa xuân năm nay các ông đã đánh bom Tòa đại sứ Mỹ. Tôi tận mắt thấy những thi thể bị xé nát của hàng chục người Việt Nam. Ông cảm thấy thế nào về việc giết hại người vô tội?”

Phát giải thích rất kỹ, rằng Mặt trận Dân tộc Giải phóng đã lên kế hoạch tỉ mỉ cho chiến dịch đó để “giảm thiểu nguy cơ đối với những người vô tội”. (Nhân tiện, Phát chưa bao giờ dùng từ “Việt Cộng”, một từ lóng chỉ “Cộng sản Việt Nam”.) Ông nói rằng chiếc xe chứa chất nổ đã được lái đến Tòa Đại sứ theo một con đường nhỏ hẹp, khó đi, thay vì chạy theo tuyến đường chính đông đúc phía trước tòa nhà. Tôi chỉ ra rằng, bất chấp những biện pháp phòng ngừa của ông, hàng chục người vô tội vẫn thiệt mạng. Phát nhún vai.

“Không phải tất cả đều vô tội. Ít nhất 90% số người Việt Nam thiệt mạng là điệp viên bí mật của Mỹ hoặc lực lượng Sài Gòn. Hầu hết những người chết trong nhà hàng đối diện, chẳng hạn, đều là gián điệp – nhà hàng đó là nơi hẹn gặp của họ. Gần như tất cả người Việt Nam đều đủ thông minh để biết rằng khu vực quanh Tòa Đại sứ Mỹ luôn nguy hiểm”. Ông lại nhún vai. “Tất nhiên, vẫn có một số người bình thường đi ngang qua – nhưng chúng tôi không thể kiểm soát mọi thứ”.

Tôi hỏi về các hành động khủng bố trong tương lai.

“Chúng tôi dự định sẽ đẩy mạnh hơn nữa”, ông nói. “Chúng tôi sẽ tiếp tục cho đến khi từng người Mỹ cuối cùng rời khỏi đây. Tôi khuyên anh nên tránh xa họ. Không một người Mỹ nào ở Sài Gòn là an toàn cả”.

Chắc chắn Phát nói thật – bằng chứng là vụ đánh bom khủng bố tại sân bay dân sự Sài Gòn tháng trước, khiến 32 người bị thương, phần lớn là người Mỹ.

Tôi nói rằng nếu người Mỹ triển khai thêm hàng nghìn binh sĩ và chiến đấu như ở Triều Tiên, tôi không tin rằng khủng bố có thể khiến họ bỏ cuộc.

Phát trở nên tự tin. “Nếu người Mỹ muốn chiến đấu ngang hàng với chúng tôi, họ sẽ cần ít nhất 4 triệu quân. Điều đó quá rõ ràng. Quân của chúng tôi có thể sống dựa vào đất đai, họ có thể di chuyển tự do. Và trên hết, đây là quê hương của họ, họ sẵn sàng hi sinh vì nó. Trong khi đó, hãy nhìn vào lượng hậu cần khổng lồ mà người Mỹ phải mang theo. Họ không biết địa hình, không biết ngôn ngữ, không hiểu người dân. Làm sao họ có thể chiến đấu ngang hàng?”

“Người Mỹ vẫn tự gọi mình là “cố vấn” cho lực lượng Sài Gòn. Nhưng chẳng mấy chốc sẽ không còn lực lượng Sài Gòn nữa và chính người Mỹ sẽ cần đến những “cố vấn” Việt Nam. Khi điều đó xảy ra, một nửa số “cố vấn” Việt Nam hỗ trợ người Mỹ sẽ là điệp viên của Mặt trận chúng tôi”.

*

Tôi hỏi Phát rằng nếu phe Việt Cộng giành được chính quyền, họ sẽ xây dựng kiểu chính phủ như thế nào.

“Không phải Cộng sản. Một chính phủ trung lập, không liên kết với ai”, ông nói, “nhưng sẽ theo đuổi chính sách kinh tế xã hội chủ nghĩa”.

Vậy còn những lãnh đạo của chế độ Sài Gòn thì sao?

Ông bật cười. “Bất cứ quan chức cấp cao nào của Sài Gòn, nếu họ có đầu óc, thì khi chúng tôi chiếm Sài Gòn, họ sẽ ở Washington hoặc Paris. Dù sao thì những nhân vật thực sự quan trọng cũng đã đi cả rồi. Các cuộc đảo chính đã loại bỏ họ. Khi đó sẽ chẳng còn ai ngoài một số con rối của Mỹ và đám tép riu”.

“Tôi e rằng sẽ chẳng ai tin là tôi đã nói chuyện với ông nếu chúng ta không có bức ảnh nào chụp chung”, tôi nói với ông.

“Được thôi”, ông đồng ý. Ông lệnh cho một người lính đi lấy máy ảnh cho tôi. Mặc dù độ ẩm và nấm mốc đã làm hỏng cả thắt lưng của tôi, nhưng máy ảnh vẫn chưa bị hư hại mấy. Tôi chụp ảnh Phát, rồi chỉnh tiêu cự, tốc độ màn trập và ống kính, sau đó hướng dẫn một người lính chụp ảnh cho hai chúng tôi.

Ông Huỳnh Tấn Phát ngồi bên căn lán nơi tác giả bị giam giữ. Bức ảnh này, do Okamura chụp và được ông Phát gửi trả, là bức duy nhất còn cứu được trong hai cuộn phim mà ông Phát cho phép tác giả chụp.

Tôi hỏi khi nào mình sẽ được thả. Phát bảo tôi hãy kiên nhẫn chờ thêm một chút. Ông muốn đảm bảo rằng tôi sẽ trở về Sài Gòn an toàn. Tôi muốn giữ lại máy ảnh, đặc biệt là các cuộn phim.

“Nếu có ai thấy anh mang theo chúng, đó sẽ là bằng chứng chống lại anh trước chính quyền Sài Gòn. Hãy để tôi giữ mọi thứ và tôi cam kết sẽ gửi về Nhật Bản cho anh”. Ông đã giữ lời về những cuộn phim – nhưng khi hai cuộn được gửi đến New York cho tôi, hầu hết các bức ảnh đều bị hỏng.

Chúng tôi vui vẻ chia tay rồi Phát biến mất vào rừng. Ngày hôm sau, sách của tôi được trả lại. Nhưng sau đó là 10 ngày lo lắng. Cuối cùng, vào lúc chạng vạng ngày 27 tháng 5, thời khắc ấy đã đến. Hai người lính áp tải tôi – một người đi trước, một người đi sau. Một người cầm theo một chiếc đèn dầu nhỏ được chế từ vỏ đạn Mỹ đã sử dụng, với một chiếc lá rừng lớn sáng bóng làm phản quang.

Họ mất ba đêm trọn vẹn – hầu hết thời gian là đi vòng vòng nên tôi ước tính chúng tôi đã đi hơn 70 dặm (hơn 110 km) – để đưa tôi đến một căn nhà nông thôn gần Quốc lộ 13. Ở đây chật kín những người tị nạn đang tìm cách chạy trốn khỏi chiến tranh. Tôi được trú lại đó một ngày một đêm, chờ đợi được giao cho một nhóm áp tải mới của Việt Cộng. Trớ trêu thay, dù đã thoát khỏi nhà tù và sắp trở lại Sài Gòn, tôi vẫn đang phải đối mặt với nguy hiểm – một kiểu nguy hiểm khác. Vì tôi vừa từ phía Việt Cộng trở về, nên bây giờ tôi không thuộc phe nào cả.

Tôi đã trải qua vài giờ căng thẳng khi một toán lính chính phủ đến lục soát ngôi nhà và tra hỏi mọi người về Việt Cộng. Người nông dân giấu tôi dưới một đống giẻ bẩn và nông cụ trong một góc nhà. Rất hôi hám, nhưng tôi vẫn phải nằm im.

Khi đường đã thông, họ đưa tôi đi cùng một nhóm trẻ em tị nạn trên một chiếc xe bò. Đến một ngã tư, tôi đổi sang một chiếc taxi ba bánh, loại xe rất phổ biến ở Việt Nam. Cuối cùng, tôi lên một chiếc xe buýt. Rồi một chiếc xe buýt khác. Và vào lúc 5 giờ ngày 30 tháng 5, tôi lảo đảo bước vào căn hộ của mình ở Sài Gòn, đối diện khách sạn Caravelle, loạng choạng lên giường và ngủ một giấc đến tận hôm sau. Khi cố ăn một bữa sáng kiểu Nhật đúng nghĩa, tôi đã nôn hết ra.■

(Hết)

Blog tư liệu Tags:Chiến tranh Việt Nam, Việt Nam trên báo Mỹ, Vietnam War

Post navigation

Previous Post: Nixon, Kissinger và những kế hoạch theo chiến lược “Kẻ điên rồ” trong năm 1969
Next Post: Nguy cơ can thiệp quân sự từ Hoa Kỳ trong giai đoạn đàm phán Hội nghị Genève 1954 và chiến lược của quốc gia này

More Related Articles

Kinh tế – xã hội Việt Nam thời kỳ sau chiến tranh và Đổi mới Blog tư liệu
Hoạt động tình báo ở các đô thị Việt Nam bị địch tạm chiếm giai đoạn 1945 – 1954 Blog tư liệu
Miền Nam Việt Nam: Cái kết của cuộc chiến tranh ba mươi năm Blog tư liệu
Với những kẻ đầu cơ, cuộc chiến thật tuyệt vời Blog tư liệu
Đề cử Giải Bùi Xuân Phái – Vì tình yêu Hà Nội 2024: Một Hà Nội… “cảm tình thân quen kỳ lạ” Báo chí
Online Conference April 9-10, 2021: 1970-1971: Nixon, Discord, and the US Withdrawal from Vietnam Tin tức

Leave a Reply Cancel reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

  • Tạp chí Phương Đông Official Channel
  • Thư viện Nguyễn Văn Hưởng Fanpage
Tạp chí Phương Đông số tháng 10-2024

Chuyên đề

  • Việt Nam trên báo Mỹ
  • Tạp chí Phương Đông

Kết nối với chúng tôi

Nguồn tài liệu

  • The Vietnam Center and Sam Johnson Vietnam Archive
  • MSU Vietnam Group Archive
  • The Wilson Center Digital Archive
  • The National Security Archive
  • CIA Historical Collections
  • Office of the Historian – U.S. Department of State
  • National Archives
  • Internet Archive
  • United Nations Archives
  • Journal of Vietnamese Studies
  • Harvard-Yenching Library
  • Yale University Digital Collections: Maurice Durand Han Nom
  • Digital Libraries – Gallica – BnF
  • Les Archives nationales d’outre-mer
  • Bulletin de l’École française d’Extrême-Orient
  • Sách Đông Dương – Thư viện QGVN
  • Thư tịch Hán Nôm – Thư viện QGVN
  • Báo chí số hóa – Thư viện QGVN

Bài mới

  • Đông Dương quanh co (Kỳ 2: Từ Sài Gòn tới Đà Lạt)
  • Giáo dục dưới thời Toàn quyền Albert Sarraut và Martial Merlin
  • Mặt trận phản chiến bên trong nước Mỹ
  • Cuộc chiến “châu chấu đá voi” ở Việt Nam
  • Hoạt động tình báo ở các đô thị Việt Nam bị địch tạm chiếm giai đoạn 1945 – 1954

Lưu trữ

TRƯNG BÀY KỶ VẬT CHIẾN SĨ

Tags

1945 1954 1975 Bảo Đại Báo chí Campuchia Chiến tranh Việt Nam Chiến tranh Đông Dương chế độ thực dân chủ nghĩa thực dân Chủ tịch Hồ Chí Minh CIA Cách mạng Tháng Tám giới thiệu sách Hoa Kỳ Huế Hồ Chí Minh Hà Nội Mỹ nghệ thuật ngoại giao Ngô Đình Diệm Ngô Đình Nhu phong trào phản chiến phong tục phản chiến Pháp POW/MIA Quan hệ Việt - Mỹ Sài Gòn thuộc địa Thập niên 1960 Thực dân Pháp triều Nguyễn Tết tình báo Vietnam War Việt Minh Việt Nam Cộng hòa Việt Nam thời hậu chiến Việt Nam trên báo Mỹ văn hóa Đảo chính Đông Dương Đông Nam Á

Đăng ký

  • ĐĂNG KÝ LÀM THẺ
  • ĐĂNG KÝ TẢI TÀI LIỆU SỐ
  • Giải phóng Xuất bản
  • Thắng địa Thăng Long – Địa linh đất Việt Xuất bản
  • Pol Pot: Mổ xẻ một cơn ác mộng Xuất bản
  • Chợ Lớn 1955: Ký và họa Xuất bản
  • Một góc nhìn thời cuộc Xuất bản
  • Những biên bản cuối cùng tại Nhà Trắng: Phút sụp đổ của Việt Nam Cộng Hòa Xuất bản
  • Biển Đông – Nhìn từ góc độ lịch sử và pháp lý Xuất bản
  • Con đường thiên lý: Hành trình kỳ lạ của các sứ bộ Anh Quốc tới Việt Nam thế kỷ 17 – 19 Xuất bản
  • Cuộc chiến của tôi với CIA: Hồi ký của Hoàng thân Norodom Sihanouk Xuất bản
  • Thế giới đang thay đổi – Trật tự đa cực xuất hiện Xuất bản
  • Tầm nhìn từ Lịch sử Xuất bản
  • Nước Nga trong thế giới đa cực Xuất bản
  • Miền đất vàng Đông Dương Xuất bản
  • Nước mắt mùa thu Xuất bản
  • Chuyến thăm Hà Nội Xuất bản

Copyright © 2025 Thư viện Nguyễn Văn Hưởng.