Tạp chí LIFE số ra ngày 7/11/1969
Thanh Trà dịch
Trong căn hộ ở Los Angeles, Pat Mearns đã đợi chờ gần 3 năm. Chồng cô, Thiếu tá Art Mearns, hoặc đang là tù binh ở miền Bắc Việt Nam, hoặc đã chết. Cô không nhận được tin tức gì về chồng mình kể từ khi anh nhảy dù xuống Bắc Việt sau khi chiếc máy bay F-105 của anh bị bắn hạ bởi hỏa lực từ mặt đất. Nếu ở trong những cuộc chiến trước đó, Pat hẳn đã biết liệu có phải anh đã bị bắt giữ làm tù binh hay không, nhưng ở đây, Bắc Việt lại không tiết lộ danh tính của khoảng 500 người Mỹ được cho là đang ở trong tay họ. Ban đầu, Pat và gia đình của những lính Mỹ mất tích khác đã âm thầm chịu đựng trong tâm trạng lo lắng mòn mỏi không biết người thân yêu của mình sống chết ra sao. Nhưng rồi họ tập hợp lại và bắt đầu “quấy rầy” Đồi Capitol. Pat và sáu người khác đi từ Washington tới Paris để đối mặt với phái đoàn Bắc Việt tại các buổi hòa đàm. Tuần trước, phát ngôn viên của phong trào hòa bình Hoa Kỳ cho biết Hà Nội đã sẵn sàng công bố danh tính của tù binh chiến tranh, và như vậy sẽ chấm dứt nỗi bất an của Pat Mearns.
“Bạn ngóng chờ tin tức”, Pat Mearns nói, “và bạn không thể đưa ra quyết định. Bạn sẽ đi tiếp như thế nào? Bạn có dám mua nhà không? Nếu Art được trả tự do, có thể anh ấy sẽ muốn làm điều gì đó hoàn toàn khác”.
“Ban đầu tôi đọc tất cả những điều khủng khiếp xảy ra trong các trại giam tra tấn, những cuốn sách về Siberia và về những nhà tù ở Triều Tiên. Tôi đọc về từng cuộc tra tấn một và tự hỏi liệu anh ấy có chịu đựng nổi không. Tôi dính chặt với đài phát thanh và vô tuyến truyền hình, nghe bất kỳ tin tức nào, và bất kỳ dấu hiệu nào rằng có thể cuộc chiến sẽ kết thúc. Nhưng năm tháng cứ trôi qua và rồi tôi không còn làm như thế nữa. Tôi không còn niềm tin như tôi đã từng. Lúc đầu, họ nói rằng họ sẽ tạm ngừng ném bom, nhưng rồi các cuộc ném bom bắt đầu trở lại. Thế rồi hòa đàm thực sự bắt đầu, và cứ thế kéo dài mãi”.
Bây giờ Pat Mearns chỉ tin đúng một thứ, đó là linh tính rằng Art còn sống. “Tôi chắc rằng nếu anh ấy đã mất, thì tôi đã có cảm nhận về điều đó. Chúng tôi có một mối quan hệ đặc biệt. Cả hai đều có thể tự mình sống tốt. Nhưng chúng tôi thật hòa hợp khi ở bên nhau. Điều khiến tôi lo lắng là áp lực khủng khiếp ở đó có thể khiến anh ấy trở nên cay đắng và khép mình. Tôi nhận ra rằng anh ấy đã thay đổi, tôi cũng thay đổi, nhưng chúng tôi lại không được thay đổi cùng nhau”.
“Thời khắc khó khăn nhất là khi tôi cho lũ trẻ đi ngủ và tôi nghe các con cầu nguyện, “Cầu cho cha con sớm được trở về bình an”, và tôi không thể nói với con rằng điều đó bao giờ sẽ đến và đến như thế nào. Tôi không thể đem lại cho con điều gì ngoài nỗi bất an”.
Trong một thời gian dài, Pat đồng ý với chính sách im lặng của Lầu Năm Góc đối với lính Mỹ mất tích. “Một vài người bạn của Art nói với tôi rằng Bắc Việt sẽ tra tấn khủng khiếp hơn nữa nếu chúng tôi làm ầm ĩ. Chúng tôi sợ hãi vì chúng tôi e rằng chồng mình sẽ phải chịu đựng mối nguy hiểm đó”.
“Bạn bè gợi ý rằng tôi nên nói chuyện với các nhóm vận động hòa bình, nhưng đó không phải là cách của tôi. Những người đó thật xa lạ với tôi. Nếu họ thật sự quan tâm đến hòa bình, thì họ đã quan tâm hơn đến vấn đề tù binh chiến tranh. Khi họ tới Hà Nội, mục đích của họ chỉ là chứng tỏ một điều, rằng chiến tranh là vô nghĩa và chúng ta không nên có mặt ở đó”.
“Bạn bắt đầu cảm thấy mình là một cái gai, vì người ta chẳng hề quan tâm và bạn là thứ gợi nhắc họ rằng mọi sự đang không diễn ra theo cách chúng ta muốn. Mọi người không hiểu. Có người từng hỏi mẹ tôi: “Pat không hẹn hò đi à?” Hẹn hò ư? Một người bạn từng hỏi liệu tôi đã nghe được tin gì từ chồng mình chưa. “Chưa”, tôi trả lời. “Trời ơi”, anh ta nói. “Đã hai năm rưỡi rồi mà cậu còn nghĩ rằng anh ấy sẽ hồi âm sao?” Tôi chỉ cười và nói, “Ừ, tôi hy vọng sẽ nhận được tin từ anh ấy”.■