Nguyễn Thế Anh – École Pratique des Hautes Études
Phạm Khánh Linh dịch
Anh, Nguyên Thê. “INDOCHINA AND THE MALAY WORLD: A GLIMPSE ON MALAY-VIETNAMESE RELATIONS TO THE MID-NINETEENTH CENTURY.” Asia Journal 3, no. 1 (1996): 105–31. http://www.jstor.org/stable/44898209.
Thông qua việc nghiên cứu Đông Nam Á như một đơn vị khu vực, các học giả như W. W. Wolters trong cuốn sách History, Culture, and Religion in Southeast Asian Perspectives (Lịch sử, văn hóa và tôn giáo theo quan niệm Đông Nam Á) đã nhấn mạnh vào mối liên hệ và đối thoại văn hóa giữa những cư dân vùng ven biển Đông Nam Á: cùng chia sẻ một “đại dương chung”, họ chắc hẳn đã giao tiếp với nhau từ thời kỳ sơ khai. Tuy nhiên, mặc dù rất nhiều công trình nghiên cứu đáng giá đã được công bố gần đây, nhưng sự tương tác giữa Đông Nam Á lục địa và hải đảo vẫn cần được tìm hiểu kỹ lưỡng hơn. Bài viết này là một nỗ lực nhỏ nhoi nhằm nhấn mạnh một số bước ngoặt trong quan hệ giữa Việt Nam và thế giới Mã Lai trong quá khứ.
Những mối quan hệ qua lại ở Đông Nam Á thời tiền sử
Dân số Đông Nam Á bao gồm các tộc người đa dạng. Hiện các nhà sử học tiền sử vẫn đang lập ra nhiều giả thuyết để tranh luận về nguồn gốc và bản sắc sơ khai nhất của họ. Tuy nhiên, các nhà ngôn ngữ học đã có thể phân định những ngữ hệ chính và tổng quát. Từ quan điểm ngôn ngữ học, có thể phân ra thành hai nhóm lớn:
- Ngữ hệ Nam Á (Austroasiatic) được chia thành hai nhóm (ngữ tộc) là Nam Đảo (Austronesian) hoặc Mã Lai-Đa Đảo (Malayo-Polynesian) và Môn-Khmer. Ngôn ngữ của quần đảo Indonesia và bán đảo Mã Lai có thể được dễ dàng xác định là thuộc nhóm Nam Đảo. Trong số các nhóm dân cư nói tiếng Mã Lai-Đa Đảo, người Dayak ở Borneo, người Batak ở Sumatra, người Alfur ở Celebes và người Molucca được gọi là người Cổ Mã Lai (Proto-Malay), trái ngược với người Mã Lai ven biển hay người Deutero-Malay – những tộc người chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa Ấn Độ. Trên bán đảo Đông Dương, ngôn ngữ của người Champa và một số dân tộc miền núi phía Nam Việt Nam (ví dụ như người Ê Đê và Gia Rai) thuộc cùng nhóm Nam Đảo. Nhưng những dân tộc khác, như người Xơ Đăng và Ba Na hay người Kha ở Lào, thì nói tiếng Môn-Khmer. Những dân tộc thiểu số này được coi là người Đông Dương bản xứ (Proto-Indochinese). Ngược lại, người Campuchia cũng nói tiếng Môn-Khmer nhưng ngôn ngữ của họ đã được Ấn Độ hóa đáng kể. Thời sơ khai, ngữ tộc Môn-Khmer trải dài từ Miến Điện đến miền Bắc Việt Nam và miền Nam Trung Quốc.
- Ba ngữ tộc có liên quan là Tạng-Miến, Thái và Việt, tất cả đều chịu ảnh hưởng từ tiếng Hoa như nhau và hiện được nói ở hầu hết vùng Đông Nam Á lục địa. Vẫn còn nhiều tranh cãi về nguồn gốc tiếng Việt, nhưng ngôn ngữ này có vẻ là sự kết hợp các đặc điểm của Môn-Khmer, Thái và Mã Lai-Đa Đảo. Giả thuyết nhiều khả năng xảy ra nhất là người Việt nói một thứ tiếng về cơ bản là Môn-Khmer nhưng trong một thời gian dài đã chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ ngữ tộc Thái và ở mức độ thấp hơn là từ ngữ tộc Mã Lai-Đa Đảo. Dù trong trường hợp nào, vào thời điểm người Việt tiếp xúc gần gũi với văn minh Trung Hoa, tiếng Việt cũng đã là một ngôn ngữ khá phát triển, và quá trình vay mượn các thuật ngữ văn học, triết học, hành chính và quân sự của Trung Quốc bắt đầu.
Chúng ta vẫn chưa có hiểu biết đầy đủ về việc những nhóm người đa dạng này định cư ở Đông Nam Á như thế nào. Cho đến khoảng cuối thập niên 60, thời tiền sử Đông Nam Á được giải thích là làn sóng di dân đầu tiên của người “Nesiot” (đại khái là một kiểu người Mã Lai). Sau đó là làn sóng người “Pareoean” (người Mông Cổ phía Nam) đến định cư ở một khu vực trước đây là nơi sinh sống của những người Australo-Melanesia lạc hậu. Những nhóm di dân đầu tiên đã mang đến kỹ thuật nông nghiệp, còn các nhóm sau thì giới thiệu kỹ thuật luyện kim. Do đó, các khái niệm về Đông Nam Á thời tiền sử thường dựa trên mô hình di cư hai lần đơn giản này cùng sự lan tỏa có tính chất một chiều từ Ấn Độ và Trung Quốc – các trung tâm phát triển hơn – sang những quốc gia lạc hậu.
Các nghiên cứu gần đây đã thách thức những giả định về làn sóng di cư vào Đông Nam Á này. Ngày nay, các đồng bằng và vùng đất thấp ở Viễn Đông trong giai đoạn từ 10.000 đến 1000 năm TCN được xem là một khu vực phát triển chủ yếu độc lập. Dấu vết của nền công nghiệp tiền đồ đá mới với đặc trưng là các công cụ đẽo đá sứt mẻ đã được tìm thấy ở miền Bắc Việt Nam (cụ thể là tỉnh Hòa Bình, do đó mới có thuật ngữ Văn hóa Hòa Bình[2]), Lào, phía Bắc và Đông Bắc Thái Lan, bán đảo Mã Lai (Gua Kerbau, Perak), Sumatra, Java, Borneo và Celebes. Vì những nền văn hóa thời đại đồ đá giữa (Mesolithic) như văn hóa Hòa Bình dường như là một hiện tượng diễn ra trên toàn khu vực Đông Nam Á chứ không chỉ mang tính chất địa phương, nên người ta đặt giả thuyết rằng chủ nhân của các nền văn hóa này thuộc chủng người Australo-Melanesia mà phân nhánh thành người Indonesia nguyên thủy và các nhóm Veloid (hoặc Austro-Asiatic). Từ khoảng thiên niên kỷ thứ 5 TCN trở đi, họ phát triển độc lập các nền văn hóa đồ đá mới đặc trưng cho toàn bộ khu vực. Trong khoảng từ 4000-1500 năm TCN, luyện đồng đã phát triển ở nhiều vùng trên toàn khu vực. Theo Donn Bayard, đây có lẽ không phải là những phát minh hoàn toàn riêng biệt hay là kết quả của sự phổ biến kỹ thuật trực tiếp từ một nguồn duy nhất.
Ở Việt Nam, thời đại đồ đồng đạt đến đỉnh cao ở văn hóa Đông Sơn, có thể bắt nguồn từ 1000 năm TCN. Các kết nối của nền văn hóa này với bên ngoài được phản ánh trong phạm vi lãnh thổ mà trống đồng được tìm thấy: Vân Nam và Tứ Xuyên thuộc miền Nam Trung Quốc, bán đảo Mã Lai, miền Nam Sumatra, Java, Bali, Sumbawa và Salayar. Các đồ vật bằng đồng được khai quật ở Đông Sơn và những địa điểm Đông Nam Á khác như Samrong Sen, Mlu Prei ở Campuchia, Non Nok Tha, Ban Chiang và Non Chai ở Thái Lan, Kompong Sungai Lang ở Tây Malaya, Gilimanuk ở Bali, v.v., có sự tương đồng trong kỹ thuật và cách trang trí đến nỗi không thể không tin vào mối liên hệ văn hóa giữa các địa điểm này. Nhưng những bằng chứng hiện tại cho thấy rằng các nền văn hóa khác nhau này đều tiên tiến như nhau, và có vẻ bất hợp lý khi coi Việt Nam là nguồn duy nhất xuất khẩu trống đồng Đông Sơn ban đầu. Phép đo đồng vị phóng xạ Carbon-14 cho thấy trống đồng Mã Lai có niên đại từ 500 năm TCN. Điều này chứng tỏ rằng trống đồng Ngọc Lũ và Hoàng Hạ của Việt Nam thậm chí còn cổ hơn. Do đó, rất có thể văn hóa Đông Sơn đã giao thoa với các nền văn hóa Đông Nam Á khác trong thiên niên kỷ cuối cùng TCN.
Vì thế, Đông Nam Á lục địa được coi là một khu vực phát triển, trong đó nền tảng văn minh rất có thể đã xuất hiện trước khi bắt đầu tiếp nhận ảnh hưởng từ Ấn Độ. Do vậy, các sử gia tiền sử đã phải thừa nhận rằng khi Đông Nam Á cảm nhận được tác động của văn hóa Ấn Độ, thì nó đã có một nền văn hóa của riêng mình. Trong cuốn The Indianized States of Southeast Asia (Các quốc gia Ấn Độ hóa ở Đông Nam Á), George Coedes đã tóm tắt những nét đặc trưng của nền văn minh này như sau: “về văn hóa vật chất: việc trồng lúa nước, thuần hóa trâu bò, sử dụng kim loại, kiến thức hàng hải; về hệ thống xã hội: tầm quan trọng của vai trò người phụ nữ và của mối quan hệ mẫu hệ, và cách tổ chức xã hội xuất phát từ như cầu tưới tiêu nông nghiệp; về tôn giáo: niềm tin vào thuyết vật linh, thờ cúng tổ tiên và thổ địa, xây dựng đền thờ ở nơi cao, chôn cất người chết trong bình tiểu hoặc mộ đá; về thần thoại: thuyết nhị nguyên vũ trụ giữa núi và biển, giữa sinh vật có cánh và sinh vật sống dưới nước, giữa người vùng núi và người vùng biển. “
Sự đa dạng văn hóa là điều hiển nhiên trong một khu vực rộng lớn như vậy. Donn Bayard thậm chí còn xem Đông Nam Á thời tiền sử là “một bức tranh khảm liên tục dịch chuyển của các nhóm văn hóa nhỏ, phức tạp như sự phân bố của các bộ tộc bộ lạc hiện đại.” Tuy nhiên, điều quan trọng là người Trung Quốc dường như đã có ý định thống nhất văn hóa khu vực này khi họ gọi các dân tộc và ngôn ngữ khác nhau ở đây bằng cái tên “Kunlun”. Từ này được giải thích theo nhiều cách. Gabriel Ferrand chỉ ra rằng nó hẳn đã được dùng để phiên âm nhiều thuật ngữ bản địa khác nhau mà bị nhầm lẫn với cách sử dụng của người Trung Quốc (ví dụ, một trong những cái tên tiếng Việt của đảo Poulo Condor là Côn Lôn – cách phát âm tiếng Việt của từ “Kunlun”). Sylvain Lévi giải thích thuật ngữ này tương đương với từ tiếng Phạn “dvipantara”, nghĩa là “người dân trên các hòn đảo”. Nicolas J. Krom chỉ ra rằng có khả năng “Kunlun” chính là Malaya. Đáng chú ý là nhà hành hương người Hoa Nghĩa Tịnh (Yijing, hay Iching) viết vào cuối thế kỷ VII sau chuyến du lịch đến Ấn Độ rằng “Kunlun” dùng để chỉ những người phương Nam đầu tiên đến quận Giao Chỉ của Trung Quốc (Việt Nam thời cổ đại) và Quảng Châu, có lẽ là các thương nhân. Do đó, ban đầu từ này có thể được sử dụng để chỉ các nhóm người sinh sống ở vùng biển Đông Dương, sau đó được mở rộng ra người Indonesia, tức tất cả các dân tộc gốc Mã Lai.
Dù sao đi nữa, các bằng chứng đang dần cho thấy rằng Đông Nam Á không phải là một khoảng không trống rỗng khi tiếp nhận ảnh hưởng từ Ấn Độ. Ví dụ, dữ liệu từ những địa điểm ở miền Trung và Đông Bắc Thái Lan cho thấy sự hiện diện của các thị trấn tập trung dựa trên nền nông nghiệp lúa nước thâm canh. Chưa xác định được niên đại chính xác của những thị trấn này, nhưng 500 năm TCN có lẽ là một con số ước tính hợp lý. Quan trọng hơn, các nhà khảo cổ học bắt đầu nghĩ rằng những mạng lưới thương mại rộng lớn có thể đã được thiết lập từ trước thời kỳ này, phát triển từ 3000 năm TCN, có lẽ là do nhu cầu về thiếc và đồng. Những hình thức trao đổi hàng hóa vốn có từ trước đã tạo điều kiện cho Đông Nam Á đáp ứng thương mại quốc tế giữa phương Đông và phương Tây khi nó mở rộng. Trong thiên niên kỷ cuối cùng TCN, khu vực bao gồm phía Bắc bán đảo Mã Lai và vùng bờ biển phía Nam Việt Nam là khu vực đầu tiên công khai mời gọi và ủng hộ sự giao thoa Đông-Tây. Tác nhân ban đầu trong mối liên hệ với nước ngoài là các thủy thủ người Mã Lai-Đa Đảo – những người đã thực hiện các chuyến đi đến tận bờ biển Châu Phi ở phía Tây và Trung Quốc ở phía Đông. Số lượng thương nhân quốc tế đi qua bán đảo Mã Lai tăng đều đặn. Tàu thuyền từ các cảng của Ấn Độ đã cập bến vào bờ phía Tây của bán đảo; hàng hóa của họ sau đó được chuyển qua eo đất Kra đến vịnh Xiêm, chất lên tàu và vận chuyển dọc theo bờ biển đến các cảng ở rìa phía Tây của đồng bằng sông Cửu Long, đáng chú ý nhất là một cảng được các nhà khảo cổ học xác định là Óc Eo ở Phù Nam – một vương quốc nằm ở bờ biển phía Nam Việt Nam. Hoạt động hàng hải cũng được thực hiện dọc theo bờ biển bán đảo Mã Lai, và Kuala Selinsing từ lâu đã được biết đến như một trung tâm tích cực sản xuất cũng như kinh doanh thủy tinh và hạt đá. Tuy nhiên, ban đầu, các trung tâm ven biển của quần đảo chủ yếu chỉ tương tác với thị trường thương mại Trung Quốc và Ấn Độ thông qua các cảng của Phù Nam.
Điều này có nghĩa là các mạng lưới thương mại đã tồn tại ở Đông Nam Á từ trước khi có sự thâm nhập về kinh tế từ bên ngoài. Chúng không phải là một phản ứng trước cuộc gặp gỡ với Ấn Độ mà đã có một lịch sử lâu đời của riêng mình. Ngược lại, việc phát triển và mở rộng thương mại có lẽ là động lực ban đầu cho quá trình Ấn Độ hóa hơn là kết quả của quá trình ấy. Điều này bác bỏ quan điểm trước đây cho rằng người Bà La Môn hay các thương nhân Ấn Độ đã ép buộc những người bản xứ lạc hậu ở Đông Nam Á phải Ấn Độ hóa. Mặc dù hầu hết các nhà chức trách thừa nhận rằng thương mại đóng vai trò quan trọng hàng đầu trong quá trình Ấn Độ hóa, nhưng giờ đây họ tin rằng thương nhân nước ngoài là động lực thúc đẩy các nhà lãnh đạo bản địa tự Ấn Độ hóa chính mình. Do đó, tương tác với thương nhân nước ngoài là kết quả của sáng kiến bản địa và là phản ứng trước những cơ hội sẵn có từ trước. Thật vậy, các tiền đề cho sự phát triển của nền văn minh lúa nước, kỹ thuật luyện sắt, mật độ dân số ngày càng cao và sự tập trung hóa chính trị đã tồn tại ở một số vùng phù sa của Đông Nam Á lục địa vào giữa thiên niên kỷ thứ nhất TCN. Cùng với sự thúc đẩy của ngoại thương, đây có thể là những nhân tố chính dẫn đến sự trỗi dậy của các vương quốc Ấn Độ hóa.
Dù thế nào đi nữa, điểm chính ở đây là sự xuất hiện gần như đồng thời các bằng chứng về quá trình Ấn Độ hóa tại nhiều vùng khác nhau của Đông Nam Á, trừ vùng đồng bằng sông Hồng ở miền Bắc Việt Nam, nơi Trung Quốc vẫn nắm giữ quyền lực chính trị vào thế kỷ II TCN. Người Việt sau đó trở thành dân tộc duy nhất ở Đông Nam Á phải xét đến Trung Quốc trong các mối quan hệ của họ trong khu vực, chứ không phải vì thị trường Trung Quốc mang lại cơ hội phát triển thương mại thịnh vượng như những địa điểm buôn bán lớn trong quần đảo. Theo đó, số phận của Việt Nam phải đi theo một hướng khác so với các nước còn lại ở Đông Nam Á. Quá trình Ấn Độ hóa sẽ vạch ra một số phận chung cho các quốc gia này trong hơn 1000 năm. Thú vị là một truyền thuyết của Indonesia đã liên hệ nhân vật thần thoại Aji Saka với cả Java và Champa, một vương quốc trước đây chiếm giữ vùng duyên hải miền Trung Việt Nam ngày nay. Aji Saka là người anh hùng được cho là đã đưa văn hóa Ấn Độ vào quần đảo, cụ thể là lịch (tính theo thời đại Śaka) và chữ viết. Truyền thuyết kể rằng ông trước tiên dừng chân ở Champa, nơi ông kết hôn với công chúa Prabawati. Sau đó, sau khi đã “văn minh hóa” Java, ông đưa vợ mình đến đó cùng với con trai của họ, hoàng tử trẻ Prabakusuma, người sẽ kế vị ông.
Phù Nam, Champa và Thế giới Mã Lai
Thực thể chính trị được biết đến sớm nhất ở Đông Nam Á là Phù Nam – vương quốc nắm quyền kiểm soát các trung tâm ven biển ở vùng hạ lưu bờ biển Việt Nam. Óc Eo là một trong số những cảng trung tâm đó, và dấu tích khảo cổ tại đây cho thấy rằng bờ biển này đã bị các nhóm săn bắt và đánh cá người Mã Lai chiếm đóng. Sau khi tự đóng tàu, những người đi biển này đã nhận thức được vị trí chiến lược quan trọng của mình, và hiểu được rằng bờ biển của họ có thể giúp vận chuyển hàng hóa Ấn Độ và Trung Quốc vì nó kết nối với tuyến đường quốc tế mới đi qua eo đất Kra. Óc Eo sớm phát triển cường thịnh. Năm 240, trong chuyến du hành đến Đông Nam Á để khám phá tuyến đường biển theo lệnh của hoàng đế nước Ngô, Khang Thái (Kang Tai) và Chu Ưng (Zhu Ying), những sứ thần Trung Quốc đầu tiên được ghi nhận trong lịch sử, đã đặt chân đến Phù Nam. Theo báo cáo của hai người này, nhà nước Phù Nam được thành lập vào thế kỷ đầu tiên sau CN, sau khi một người nước ngoài mang tên Ấn Độ là Kaundinya kết hôn với một công chúa địa phương – con gái của người cai trị vùng biển này, và hội nhập chính trị bằng cách bắt các vị thủ lĩnh địa phương tuân theo ông ta cũng như những người kế nhiệm. Các sử gia đã đề xuất nhiều cách giải thích khác nhau về thần thoại Phù Nam này. Nó đủ để cho thấy rằng Phù Nam đã sớm phát triển thành một trung tâm kinh tế có mối liên hệ với ba vùng văn hóa Đông Nam Á sơ khai. Một trong số đó kéo dài từ vùng hạ Miến Điện đến Phù Nam và là nơi sinh sống của các nhóm văn hóa Môn-Khmer và Pyu đang phát triển. Vùng thứ hai mở rộng lên phía Bắc bờ biển Việt Nam, bao gồm khu vực sau này trở thành lãnh địa của nền văn minh Champa. Vùng thứ ba kéo dài từ Phù Nam vào đến vùng văn hóa biển Java với các cư dân người Mã Lai. Những tư tưởng của Phù Nam đã được đưa vào ba vùng này thông qua các tuyến đường thương mại nối đất liền với quần đảo Indonesia.
Đến thế kỷ III, quyền lực của Phù Nam đã vượt ra ngoài hạ lưu đồng bằng sông Cửu Long đến vùng thượng bán đảo Mã Lai. Đầu tiên, quyền thống trị của Phù Nam đối với vùng đồng bằng sông Cửu Long được củng cố bằng việc sáp nhập lãnh thổ từ phía Bắc lên đến cửa sông Tonle Sap và sau đó chinh phục Champa. Thứ hai, một cuộc viễn chinh hải quân quy mô lớn đã giúp Phù Nam giành quyền kiểm soát nhiều trung tâm thương mại nằm trên bờ biển Mã Lai, qua đó củng cố vị thế thống trị của nhà nước này đối với dòng chảy thương mại qua Đông Nam Á. Những nơi rơi vào quỹ đạo của Phù Nam bao gồm các điểm trung chuyển chính của Mã Lai mà theo nguồn tài liệu của Trung Quốc là Dunsun (có lẽ nằm trên bờ biển Tenasserim của bán đảo Mã Lai), Panpan (phía Đông Bắc bán đảo Mã Lai), Langjiasu (vương quốc Langkasuka xuất hiện trong biên niên sử của người Mã Lai và Java, đi qua phần eo của bán đảo Mã Lai), Dandan (hoặc nằm trên bờ biển phía Đông Bắc Malaya, phía Nam Pattani, hoặc thuộc khu vực Trengganu xa hơn về phía Nam), Chitu (âm Hán Việt là Xích Thổ, nghĩa đen là “Vùng Đất Đỏ”, xác định vị trí khu vực này là một trong những vấn đề khó nhất trong địa lý lịch sử Đông Nam Á: G. Coedès cho rằng Chitu nằm ở vùng Phatthalung thuộc miền Nam Thái Lan, trong khi một số học giả khác lại xác định Chitu nằm ở phía Nam bán đảo Mã Lai). Ở đầu phía Nam bán đảo, cảng Juli (Chuli), nơi tàu thuyền Ấn Độ chờ gió mùa thay đổi, cũng quy phục Phù Nam.
Tuy nhiên, đến thế kỷ IV, vì không còn tiếp cận được các tuyến đường dành cho lái buôn qua Trung Á, nên Trung Quốc buộc phải thúc đẩy phát triển đường biển hơn nữa. Những sáng kiến mà họ thực hiện nhằm mở rộng thương mại dọc theo tuyến đường biển đã nhận được phản ứng ngay lập tức từ rất nhiều trung tâm ven biển phía Nam và phía Đông bán đảo Mã Lai, những nơi vốn đã giao thương trực tiếp với Ấn Độ và gián tiếp với Trung Quốc. Các chuyến đi thẳng bắt đầu được thực hiện từ khu vực eo biển Sunda đến Trung Quốc qua Biển Đông, bỏ qua Phù Nam. Một điểm trung chuyển thương mại được Trung Quốc ghi lại là Geying (Ko-ying, có lẽ là Kawang ở vùng Tây Bắc Java) trở thành bến cuối trên eo biển Malacca để thực hiện các giao dịch thương mại giữa Ấn Độ và các quần đảo Spice ở phía Đông. Geying đã giao thương với Trung Quốc thông qua Phù Nam trong một thời gian dài, nhưng vị thế kinh tế của nó bị thách thức vào thế kỷ V bởi trung tâm thương mại Heluodan (Holotan) nằm ở phía Tây Java, nơi có các con tàu thường xuyên giăng buồm đến Trung Quốc. Cuối cùng, cả hai đều bị thay thế bằng một trung tâm thương mại mới ở phía Đông Nam Sumatra là Gantuoli (có lẽ là Palembang) – tiền thân của nhà nước Srivijaya, cường quốc hàng hải thống trị khu vực phía Tây biển Java.
Sự phát triển của các trung tâm thương mại trên bờ biển Sumatra gần eo biển Sunda, vốn đang đóng góp ngày càng nhiều cho thương mại quốc tế bằng việc cung cấp phương tiện vận chuyển giữa Indonesia và Trung Quốc, là nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của Phù Nam và các trung tâm khác ở phía Bắc bán đảo. Các tàu và thủy thủ đoàn Mã Lai vận chuyển những sản phẩm của Sumatra cùng gia vị của biển Java đến Trung Quốc và mang về hàng hóa Trung Quốc. Chẳng bao lâu sau, các nhà cai trị vùng duyên hải bắt đầu dùng những thủy thủ này để giữ trật tự eo biển, vì cướp biển là một tệ nạn đối với tàu thuyền trong khu vực này. Sau khi các Orang Laut – dân đi biển kiếm sống theo phương thức này – được đưa vào tầm kiểm soát, quan hệ hàng hải giữa các cảng Sumatra và Ấn Độ được mở rộng. Tàu thuyền từ Ấn Độ bắt đầu vòng về phía Nam qua eo biển Malacca, thay vì cập bến vào vùng thượng bán đảo Mã Lai và gửi hàng hóa của họ qua eo đất Kra bằng đường bộ. Do đó, các cảng của Phù Nam bị gạt ra ngoại vi dòng thương mại quốc tế. Để tiếp tục tham gia vào dòng thương mại này, thương nhân Phù Nam phải đi đến các điểm trung chuyển khác, giống như những người đi biển Đông Nam Á trước đây phải đến Phù Nam để thực hiện các giao dịch. Điều này đã gây ra những hậu quả khôn lường đối với Phù Nam: việc chuyển tuyến thương mại quốc tế đến eo biển Malacca và bỏ qua các cảng Phù Nam đã lấy đi nguồn thu quan trọng của các vua xứ này. Hậu quả là sự thịnh vượng của vương quốc bị giảm sút.
Đến giữa thế kỷ V, Trung Quốc nhận ra rằng các cảng của Phù Nam không còn đóng vai trò chi phối trong thương mại Đông Nam Á nữa. Sự chú ý của họ giờ đây đã hoàn toàn chuyển sang các điểm trung chuyển trên biển Java. Năm 449, hoàng đế Trung Hoa đã cử sứ bộ đến ba trung tâm ven biển của Indonesia để phong tước vị cho vua các “vương quốc” đó. Đáng chú ý hơn, năm 491, triều đình Trung Quốc đã phong tước ” Đô đốc Duyên hải chư quân sự” cho vua nước Lâm Ấp của người Chăm ở phía Bắc đồng bằng sông Cửu Long trên bờ biển Việt Nam, mặc dù thực tế là Lâm Ấp đã liên tục sách nhiễu các quận Nhật Nam và Giao Chỉ của Trung Quốc ở miền Bắc Trung bộ Việt Nam và đồng bằng sông Hồng ở phía Bắc. Do đó, chiếu năm 491 chỉ ra rằng Trung Quốc yêu cầu vua Lâm Ấp phải chịu trách nhiệm ngăn chặn các hành vi cướp biển trên bờ biển Champa. Trên thực tế, trên đường đến Trung Quốc, tàu thuyền từ Java phải đi sát bờ biển Champa để tránh các rạn san hô gây nguy hiểm ở Hoàng Sa. Vào thế kỷ V, có vẻ như họ bị đe dọa bởi nạn cướp biển. Theo K.R. Hall, tình trạng cướp biển này có thể là kết quả của việc Phù Nam cố giành lại quyền kiểm soát các kênh hàng hải bằng cách buộc tàu thuyền phải sử dụng các cảng của mình làm trung gian, hoặc vì sự suy tàn của Phù Nam như một trung tâm thương mại lớn đã buộc thuộc địa Mã Lai của Phù Nam phải dùng đến phương thức cướp biển.
Rõ ràng, với sự sụp đổ thương mại của Phù Nam, các cảng Lâm Ấp đã chiếm được một vị trí thương mại vững chắc trên bờ biển phía Nam Việt Nam do vị trí địa lý gần với tuyến đường hàng hải quốc tế mà nay đã được tái cấu trúc và đi qua phần phía Tây biển Java trước khi chuyển hướng Bắc về phía Trung Quốc. Các cảng Champa trở thành điểm dừng chân trung gian cho tàu buôn đi qua Biển Đông trước khi cập bến vào cảng của Trung Quốc. Sách lịch sử Trung Quốc “Lương Thư” (Liang Shu) vào thế kỷ VI đề cập rằng có thể đến Poli (có khả năng là Bali, nếu không phải là Borneo – hòn đảo được Trung Quốc đặt tên là “Poni” từ thế kỷ IX, hoặc thậm chí là Brunei nằm ở Borneo), vương quốc nằm trên một hòn đảo cách Quảng Châu hai tháng đi đường, sau khi đi qua Lâm Ấp (Linyi), Phù Nam (Funan), Xích Thổ (Chitu) và Đan Đan (Dandan).
Sự sụp đổ của Phù Nam với tư cách là một trung tâm trung chuyển quốc tế lớn khiến các chư hầu nước này ly khai với Phù Nam để thiết lập bản sắc của riêng mình với tư cách là các trung tâm kinh tế. Không chỉ Champa mà nhiều trung tâm quanh vùng thung lũng sông trên bờ biển bán đảo Mã Lai bắt đầu cử sứ thần triều cống đến triều đình Trung Quốc để thúc đẩy quan hệ thương mại với Trung Quốc. Không còn thịnh vượng như thời đại trước đó, các quốc vương Phù Nam lui vào đất liền, tập trung cai trị những vùng lãnh thổ ở thượng lưu đồng bằng sông Cửu Long nhằm tối đa hóa nguồn thu từ cơ sở kinh tế nông nghiệp của họ. Nhưng đến giữa thế kỷ VI, Phù Nam suy yếu nghiêm trọng do mâu thuẫn nội bộ. Nhận ra cuộc khủng hoảng của Phù Nam, các nước láng giềng ngày càng gia tăng sức ép lên nước này. Người Khmer ở khu vực mà Trung Quốc gọi là Chân Lạp bắt đầu tiến đánh Phù Nam từ vùng nay là Thái Lan và Campuchia. Lãnh thổ Phù Nam cuối cùng bị Chân Lạp xâm chiếm. Cư dân Chân Lạp tự xưng là Kambuja – tổ tiên của người Campuchia hiện đại. Vùng châu thổ Mê Kông của Phù Nam trước đây suy tàn, trong khi các trung tâm thuộc quyền kiểm soát của người Chăm và người Khmer trở thành tâm điểm của nền văn minh trên đất liền: người Chăm kiểm soát bờ biển phía Nam Việt Nam, còn người Khmer xây dựng một nền văn minh nông nghiệp vĩ đại tại Angkor.
Sau khi Phù Nam bị chia cắt, Trung Quốc tìm cách thiết lập mối quan hệ giao thương với những trung tâm thương mại khác có khả năng duy trì dòng chảy thương mại Đông-Tây. Kết quả là nhiều quốc gia Đông Nam Á khác nhau tìm cách trở thành trung tâm thương mại chi phối cả khu vực. Một trong số đó là Srivijaya. Quốc gia này đã thành công trong việc giành quyền kiểm soát eo biển Malacca và Bangka. Từ trung tâm của bán đảo Mã Lai nằm trên bờ biển miền Trung và miền Nam Sumatra, một mạng lưới các trung tâm nói tiếng Mã Lai của Srivijayan đã phát triển rộng khắp từ quần đảo Riau-Lingga đến khu vực phía Nam bán đảo Mã Lai. Hoạt động giao thương của Trung Quốc với bán đảo Mã Lai và xa hơn nữa tập trung vào các cảng này của Srivijaya. Thời kỳ hoàng kim của Srivijaya kéo dài đến năm 1025, khi vương triều Chola ở Nam Ấn tấn công thành công vào các cảng thuộc khu vực Malacca và đập tan quyền lực của Srivijaya trên eo biển này.
Trong khi Srivijaya đang áp đặt quyền bá chủ về kinh tế đối với tuyến hàng hải phía Nam, Champa củng cố vai trò của mình như một trung tâm thương mại thứ cấp trên tuyến đường quốc tế nằm giữa thế giới Mã Lai và Quảng Châu. Đến năm 758, Trung Quốc ghi lại rằng Champa đã phát triển hai trung tâm thương mại tại Kauthara (nay là Nha Trang) và Panduranga (nay là Phan Rang), và đặt tên cho quốc gia là Hoàn Vương (Huanwang). Tàu thuyền Trung Quốc sẽ ghé vào các cảng này trước khi tiến về phía quần đảo. Theo cách này, Champa có cơ hội tận dụng những lợi ích kinh tế thu được từ việc tham gia vào tuyến đường hàng hải giữa Trung Quốc và Srivijayan.
Các bia khắc có niên đại từ thế kỷ VIII ghi lại hai cuộc đột kích trên biển mà đe dọa sự tồn tại của Champa. Một bản khắc bằng tiếng Phạn trong ngôi đền Po Nagar ở Nha Trang cho chúng ta biết rằng vào năm 774, “những người đàn ông sinh ra ở nước ngoài, sống bằng loại thức ăn còn kinh tởm hơn cả xác chết, đáng sợ, đen sì và hốc hác, đáng sợ và xấu xa như cái chết, đã đi tàu đến”, lấy trộm linga và đốt đền. Một cuộc đột kích thứ hai được thực hiện vào năm 787 bởi “quân đội Java, đi trên tàu thuyền” đã đốt cháy một ngôi đền khác ở Panduranga. Các sử gia thường xác định những người đi biển có làn da sẫm màu và quỷ quyệt này chính là các nhóm thủy thủ tương tự như “dân du mục trên biển” Mã Lai – sức mạnh đứng đằng sau quyền bá chủ của Srivijaya, những người có thể được dùng để kiểm soát việc vận chuyển hàng hải, nhưng trong thời kỳ hỗn loạn về chính trị thì họ có thể chuyển sang kiếm sống bằng nghề cướp biển.
Cả hai cuộc đột kích nêu trên đều nhắm vào hai cảng được Trung Quốc đánh giá là quan trọng về mặt thương mại. Theo quan điểm của K.R.Hall, các cuộc đột kích của người Mã Lai có thể được diễn giải theo hai cách. Thứ nhất, sự nổi lên của Kauthara và Panduranga ở khu vực phía Nam bờ biển Champa có thể đã đe dọa quyền bá chủ của Srivijaya trên tuyến hàng hải quốc tế. Trong trường hợp này, các cuộc đột kích có thể được giải thích là do Srivijaya khởi xướng nhằm ngăn chặn sự phát triển của các trung tâm kinh tế đối thủ. Ngoài ra, chúng có thể được thực hiện bởi các nhóm người đi biển, những người trước đây từng ủng hộ quyền kiểm soát của Srivijaya đối với các vùng biển phía Nam, nhưng lại trở thành cướp biển vào thế kỷ VIII. Các cảng của Champa được công nhận là trung tâm thương mại thịnh vượng trong thời kỳ đó chắc chắn là nơi có nhiều nguồn hấp dẫn để cướp bóc.
Tuy nhiên, Panduranga vẫn là một hải cảng chính trên bờ biển Champa. Vào giữa thế kỷ X, quốc vương Champa Indravarman III đã dùng một thành viên thuộc cộng đồng thương nhân nước này – một người Hồi giáo tên là Abû Hassan (người Trung Quốc gọi là Bồ Ha Tán – Pu He San) – để đẩy mạnh quan hệ thương mại với Quảng Châu. Khi ấy, Trung Quốc đã một lần nữa đổi tên Champa, lần này là Chiêm Thành, tức “thành phố Chiêm” (Champapura). Sức mạnh hàng hải mà Champa thời kỳ này có được là nhờ vào những nhóm người tương tự như cướp biển Mã Lai từng cướp phá vùng bờ biển Champa vào thế kỷ VIII. Điều này làm tăng cường mối quan hệ qua lại giữa Champa và Mã Lai, có thể thấy trong ảnh hưởng của người Java đối với văn hóa Champa. Ảnh hưởng này thể hiện rõ nét nhất trong kiến trúc tháp Chăm, đặc biệt là tại Mỹ Sơn (thuộc Quảng Nam ngày nay) với quần thể đền đài của các vị vua Champa – trái tim của thánh địa Champa. Một bản khắc của người Chăm cho biết trong những năm đầu tiên của thế kỷ X, một người họ hàng của hoàng hậu Tribhuvanadevi, Po Klung Pilih Rajadvara, đã hành hương đến Java (Yavadvipapura) để “tiếp thu ma thuật”. Một bản khắc của người Java cùng thời kỳ cũng đề cập cụ thể đến hoạt động của cả thương nhân Chăm và Khmer ở Java. Mối quan hệ tốt đẹp tồn tại giữa Champa và Java được duy trì trong những thế kỷ sau: truyền thuyết Putri Cempa kể về một công chúa Chăm trở thành vợ một vị vua Majapahit. Vào giữa thế kỷ XIV, Prapanca, tác giả của biên niên sử Nagarakertagama, đã đưa Champa vào dưới sự bảo hộ của vua Majapahit; và quốc gia Đông Nam Á duy nhất bị loại trừ khỏi mạn đà la của vua Majapahit là Việt Nam, được gọi là “Yawana” – một từ tiếng Phạn chỉ “Hy Lạp” hay “người nước ngoài”.
Rõ ràng, mối liên hệ với người Java đã thu hút nhiều thương nhân và thủy thủ Mã Lai đến các cảng của Champa, đặc biệt là Panduranga. Các quốc vương Champa dùng năng lực cướp biển của những thủy thủ này để chống lại Việt Nam, quốc gia ngày càng gây áp lực lên nước láng giềng phía Nam sau khi giành được độc lập từ chính quyền Trung Hoa. Hai cuộc viễn chinh lớn trên biển đã được tổ chức, lần đầu tiên vào năm 979, lần thứ hai vào năm 1042, không kể vô số các cuộc tấn công mà người Chăm thực hiện dọc biên giới phía Bắc của họ. Rất có thể một số cuộc tấn công trên biển chống lại Việt Nam của người Chăm trong thời kỳ này đã được khởi xướng bởi dân đi biển Mã Lai, những người sử dụng các cảng của người Chăm làm căn cứ hoạt động.
Thái độ thù địch giữa Champa và Việt Nam trong thế kỷ X và XI không chỉ thể hiện ở các nỗ lực mở rộng lãnh thổ mà còn ở những tác động về mặt thương mại. Trên thực tế, nước Việt Nam mới nổi không chỉ là một mối đe dọa chính trị, mà từ khía cạnh kinh tế, các cảng của nước này còn là đối thủ thương mại chính của Champa. Thật vậy, những bến cảng vùng duyên hải Việt Nam đóng vai trò là các trung tâm thương mại chính của miền Nam Trung Quốc. Cảng Vân Đồn ở góc Đông Bắc châu thổ sông Hồng đang nổi lên như một hải cảng vượt trội; và một tuyến đường nội địa nối miền Nam Trung Quốc, Việt Nam và kinh đô Angkor của Khmer cũng trở nên quan trọng. Việc phát triển một tuyến đường bộ thay thế phía Bắc từ Việt Nam sẽ chuyển hướng giao thương khỏi các cảng của người Chăm một cách đáng kể và đe dọa sự thịnh vượng của họ. Do đó, cộng đồng thương nhân Mã Lai ở Champa đã hợp tác với vua Chăm trong các cuộc viễn chinh chống lại người Việt.
Những thương nhân và thủy thủ nước ngoài hữu ích đối với vua Chăm theo hai cách: một mặt, họ viện trợ cho người Chăm mở rộng các cơ hội kinh tế; mặt khác, họ cung cấp hải quân cho người Chăm phòng thủ ven biển và tiến hành các cuộc chinh phạt. Mối quan hệ này đòi hỏi năng lực lãnh đạo mạnh mẽ để kiểm soát được các lực lượng có khả năng gây bất ổn này. Mặt tích cực là nó giúp mở rộng giao thương giữa Champa và Trung Quốc, mang lại sự thịnh vượng về kinh tế. Nhưng khía cạnh tiêu cực hiển nhiên là những người ngoại quốc này có thể đe dọa sự toàn vẹn lãnh thổ khi họ vượt quyền và thoát ly khỏi quyền lực trung ương. Thật không may, vì là trung tâm thứ cấp trong thương mại quốc tế, các cảng của Champa có khối lượng mậu dịch hạn chế và do đó, thuế mà các quốc vương Champa thu được không đủ để duy trì lòng trung thành của những đồng minh hàng hải, và rồi những người đi biển này trở thành cướp biển. Trên thực tế, các vua xứ Champa thường không thể kiểm soát hành vi của dân đi biển. Hoạt động cướp biển của người Chăm, vốn nổi tiếng trong cộng đồng hàng hải quốc tế, càng làm suy yếu thêm sức hấp dẫn của các cảng Champa đối với thương nhân quốc tế và làm tăng khả năng gây bất ổn chính trị ở nước này.
Như K. R. Hall đã chỉ ra, vì không thể khai thác sản lượng thặng dư từ đất đai, đồng thời cũng không có khả năng đảm bảo đủ lợi nhuận để duy trì lòng trung thành của các thủy thủ, các vua Chăm buộc phải tìm kiếm những nguồn thu nhập thay thế để duy trì mạng lưới liên minh thiết yếu đối với quyền lực của họ. Do đó, họ thấy cần phải chỉ đạo những người ủng hộ mình mạo hiểm đi ra ngoài lãnh thổ Champa để cướp bóc các nước láng giềng: người Việt ở phía Bắc và người Khmer ở phía Tây. “Động lực cướp bóc” này giải thích tại sao lịch sử Champa bị chi phối bởi hết cuộc viễn chinh này đến cuộc viễn chinh khác. Những cuộc viễn chinh đó được thực hiện để thu của cải vật chất và nhân lực, dưới hình thức nô lệ. Số của cải này sau đó được phân phối cho những người tham gia cuộc viễn chinh, các chiến binh và thủy thủ, những người công nhận quyền lực của vua Chăm. Do đó, các cuộc viễn chinh cướp bóc thành công là một phương tiện củng cố hình ảnh quốc vương Champa như là nguồn gốc cho sự thịnh vượng của các đồng minh của vị vua này.
Không giống như các vua Srivijaya – những người có được quyền lực và tài năng từ việc phân phối lại của cải tích lũy được với vai trò là người thúc đẩy thương mại Đông-Tây hàng đầu, và các vua Khmer – những người thu lợi nhuận từ vùng lúa nước xung quanh Angkor, các quốc vương Champa đã buộc phải duy trì lòng trung thành của thuộc hạ, bao gồm cả thủy thủ Mã Lai, bằng cách giữ cho những người ủng hộ này tham gia tích cực vào nhiều cuộc viễn chinh khác nhau chống lại các nước láng giềng. Điều này cho thấy sự yếu kém cố hữu trong thể chế nhà nước Champa. Các cuộc viễn chinh trả đũa của người Việt cuối cùng đã làm tiêu hao hết nhân lực của Champa trong thế kỷ XV.
Mối quan hệ giữa Việt Nam và Thế giới Mã Lai
Từ những thông tin bên trên, chúng ta có thể suy luận một cách an toàn rằng Việt Nam đã tiếp xúc với thế giới Mã Lai từ xa xưa, mặc dù đôi khi các cuộc tiếp xúc có thể diễn ra gián tiếp qua trung gian là Champa. Sự mở rộng thương mại hàng hải quốc tế, đặc biệt là sự phát triển thời kỳ đầu của tuyến hàng hải nối bán đảo Mã Lai, biển Java, quần đảo Sulu và bờ biển Việt Nam như chúng ta đã thấy. Mạng lưới này vẫn hoạt động cho đến rất gần đây, với những chuyến đi thường xuyên của các tàu buôn từ Trengganu đến các địa điểm khác nhau ở vịnh Xiêm, xa đến tận Sài Gòn và các cảng khác ở miền Nam Việt Nam trong những năm ngay sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai.
Những mối quan hệ này không chỉ bị giới hạn trong các giao dịch thương mại nhất thời. Một đoàn thương nhân Mã Lai có vẻ đã đến định cư lâu dài ở Biên Hòa, gần Sài Gòn, từ cuối thế kỷ XVII. Có vẻ như vùng bờ biển Hà Tiên về phía Tây cũng đã từng che chở cho các kiều dân Mã Lai vào cùng khoảng thời gian đó. Mặt khác, vấn đề người tị nạn trên biển dù còn xa mới bằng quy mô các cuộc di cư gần đây của thuyền nhân nhưng cũng đã tồn tại từ xa xưa. Năm 1778, Charles Chapman, phái viên Công ty Đông Ấn tại Việt Nam vào nửa sau thế kỷ XVIII, đã ghi lại sự hiện diện của hơn 40 người bản xứ “Nam Kỳ” tại Trengganu, những người bị đắm tàu gần cảng này. Họ bị bắt làm nô lệ cho Rajah của Trengganu, nhưng thà tiếp tục sống trong cảnh nô lệ còn hơn là bị đưa về một đất nước khi ấy đang bị nội chiến tàn phá.
Tuy nhiên, các văn bản lịch sử hiếm khi đề cập đến sự giao lưu giữa hai bên. Chính vì thế, chúng ta không biết liệu các mối quan hệ văn hóa đã từng được thiết lập lâu dài hay không. Sử sách Việt Nam ghi lại rằng, một hoàng tử nhà Trần là Trần Nhật Duật, mất năm 1330, nổi tiếng là thích ngoại ngữ và phong tục tập quán. Ông là người duy nhất trong triều đình có thể làm thông dịch viên khi các sứ thần Mã Lai đến Việt Nam từ Sách Mã Tích (chỉ Temasek, tên gọi cũ của Singapore, vốn phát triển hưng thịnh vào đầu thế kỷ XIV). Nhưng trường hợp của Trần Nhật Duật quá đặc biệt để chúng ta có thể suy luận rằng một cuộc gặp gỡ thực sự đã từng thực sự diễn ra giữa hai nền văn hóa. Tương tự như vậy, chúng ta cũng không nên kết luận một cách có hệ thống rằng các mối quan hệ chính trị đã không ngừng diễn ra, chỉ vì sử sách Việt Nam cho biết rằng một số quốc gia Mã Lai đã gửi cống phẩm đến triều đình Việt Nam theo định kỳ. Trên thực tế, đây là một chi tiết hư cấu do chế độ quân chủ Việt Nam tạo ra nhằm đề cao sự vượt trội về văn hóa của mình so với các nước láng giềng Đông Nam Á, tức là các quốc gia khác (trừ Trung Quốc) đều xếp hạng dưới Việt Nam theo Nho giáo. Theo đó, quan hệ ngoại giao với những quốc gia này chỉ có thể được thực hiện tại triều đình Việt Nam nếu sứ thần của họ tuân thủ đúng các nghi lễ dành cho chư hầu. Do đó, các sử quan của triều đình buộc phải miêu tả những thương nhân nước ngoài diện kiến vua Việt Nam là sứ thần mang cống.
Tuy nhiên, giống như các quốc vương Champa, các vua Việt Nam cũng phải nhờ đến người Mã Lai trong một số trường hợp đặc biệt. Sử nhà Nguyễn kể lại rằng, vào đầu thế kỷ XVIII, để đánh bật hơn 200 thương nhân Công ty Đông Ấn đến định cư trên đảo Poulo Condor, Trương Phúc Phan – Trấn thủ dinh Trấn Biên (Biên Hòa ngày nay) – đã tuyển mộ 15 người Mã Lai làm nhiệm vụ bí mật thâm nhập vào hàng ngũ những kẻ xâm lược. Một đêm nọ, những người lính đánh thuê này bắt đầu phóng hỏa và lợi dụng tình trạng rối loạn để giết gần hết tất cả các nhân viên trong khu định cư của Anh. Người Anh sau đó đã từ bỏ mọi ý định thành lập một trung tâm thương mại trên lãnh thổ nhà Nguyễn. Tuy nhiên, người ta không thể không đặt câu hỏi về sự dễ dàng trong việc thực hiện kế hoạch này. Có thể sử nhà Nguyễn đã bóp méo sự thật. Chúng khác với các nguồn bằng tiếng Anh mà theo đó, vụ thảm sát nhân viên Công ty Đông Ấn bị gây ra bởi Makassar – những người do chính Công ty Đông Ấn thuê làm lính, nhưng đã nổi dậy vì bị giữ quá thời hạn hợp đồng.
Nói chung, các tài liệu lịch sử liên quan đến mối quan hệ giữa Mã Lai và Việt Nam sai lệch ở nhiều khía cạnh. Trước hết, các tác giả Việt thời xưa đều không có hiểu biết đầy đủ về thế giới Mã Lai. Mượn thuật ngữ địa lý từ Trung Quốc, họ đặt cho các quốc gia trên bán đảo Mã Lai và quần đảo Indonesia những cái tên là phiên bản Hán Việt của tên tiếng Trung. Nhưng dường như họ thường không biết chính xác những cái tên này biểu thị thông tin địa lý gì. Kết quả là họ dễ có xu hướng gộp tất cả các khu vực và dân cư của các vùng biển phía Nam vào cùng một thuật ngữ chung chung là Chà-và, một trong những cái tên người Trung Quốc đặt cho Java (Chawa, Shepo, Dupu) nhưng phát âm theo kiểu Việt Nam. Do đó, sử sách thời xưa thường có những đoạn như: “Năm 1789, các sứ thần từ vương quốc Tà-ni (tức Pattani), một cái tên của nước Chà-và, đến để chào hàng các sản vật địa phương và xin hỗ trợ chống lại Xiêm.”
Các sử quan thời xưa cũng có xu hướng tránh xác định vị trí địa lý cho những cái tên trông quá xa lạ với họ. Nhưng khi họ mạo hiểm làm điều đó, nỗ lực của họ đôi khi rất đáng ngạc nhiên. Ví dụ như các tên tiếng Trung cổ của Poli, Gantuoli, Chitu đã dẫn bên trên. Dựa trên sự tương đồng về âm thanh, Trịnh Hoài Đức (1765-1825) đã đề xuất trong “Gia Định thành thông chí” về việc đặt Poli ở khu vực Bà Rịa, miền Đông Nam Kỳ. Nguyễn Siêu, một tác giả nửa sau thế kỷ XIX, đã đưa ra lập luận khác khi xác định vị trí Poli ở Xiêm, và Gantuoli và Chitu ở tỉnh Biên Hòa ngày nay. Những kết luận này đã được Quốc sử quán triều Nguyễn thông qua khi soạn “Đại Nam thực lục”, cho rằng vùng đất đỏ của tỉnh Biên Hòa tương ứng với vùng Chitu.
Sự phức tạp nảy sinh từ thực tế là cách phát âm tiếng Việt của các thuật ngữ tiếng Trung làm biến đổi thêm âm thanh của tên gốc, đôi khi làm sai lệch chúng đến mức khó nhận ra. Hơn nữa, một số chuyển đổi về mặt ngôn ngữ nhất định có thể được ưu tiên hơn là cách phiên âm của Trung Quốc, chẳng hạn như dùng Hạ Châu thay vì Tân Châu Phủ (Xinzhoufu) để chỉ Singapore, hoặc Lạt Gia thay vì Mãn Lạt Gia (Manlajia) để chỉ Malacca. Đôi khi, thuật ngữ tiếng Trung có thể được dịch trực tiếp sang các từ không phải Hán Việt. Người Trung Quốc viết tên đảo Penang là Tân Lang Dữ (Binlangyu) – một từ biểu âm (gần với phát âm tên Penang) và biểu ý (nghĩa là Đảo Cọ). Khi mượn thuật ngữ này, đầu tiên quan lại của Việt Nam chuyển nó thành âm Hán Việt là Tân Lang Dữ. Cách diễn đạt này vẫn giữ được phần lớn âm thanh của tên gốc, đồng thời truyền tải được ý nghĩa tương đương với tiếng Trung. Tuy nhiên, một sự thay đổi nữa đã xảy ra, vì các thuyền trưởng không được đào tạo bài bản của Việt Nam không quen với chữ Hán cổ điển: đối với họ, Penang trở thành Hòn Câu hay Cù lao Câu, có nghĩa là “Đảo Cọ” trong tiếng Việt. Thuật ngữ mới này sẽ không gợi đến Penang cho bất kỳ ai ngoài người Việt Nam, vì nó chỉ giữ nguyên ý nghĩa của tên tiếng Trung mà không biểu thị cách phát âm gốc. Đồng thời, cũng cần lưu ý rằng từ “Cù lao” trong Cù lao Câu nghĩa là “đảo” – phiên bản Việt hóa của từ “pulau” trong tiếng Mã Lai. Nó được sử dụng phổ biến trong các tài liệu thế kỷ XIX hơn là từ Hán Việt “đảo”. Đây không phải là trường hợp vay mượn ngôn ngữ duy nhất. Điều đó có nghĩa là có thể có sự thấm nhuần nhất định ảnh hưởng của văn hóa Mã Lai.
Thuật ngữ địa lý là một trong vô số những vấn đề mà các nhà nghiên cứu lịch sử quan hệ Việt Nam-Mã Lai phải đối mặt. Lịch sử này chắc chắn vẫn còn phải tiếp tục được viết. Nhưng tất cả các khía cạnh đa dạng của nó sẽ chỉ được soi sáng sau khi đã đối chiếu mọi nguồn lịch sử và tham khảo mọi tài liệu có ở những nơi khác nhau. Riêng từ phía Việt Nam, không phải tất cả các tài liệu về đề tài này đều đã được khai thác. Các du ký được bảo tồn cho đến nay hầu như vẫn chưa được công bố. Tập “Hải trình chí lược” (Ghi chép về những điều đã thấy trong hành trình viễn dương), trong đó Phan Huy Chú ghi lại cảm tưởng của ông trong chuyến công tác đến Batavia năm 1833-34, gần đây mới được dịch.
Hiện tại, bài viết này chỉ đơn thuần tìm cách xác định niên đại mối quan hệ Mã Lai-Việt Nam cho đến giữa thế kỷ XIX.
Từ đầu thế kỷ X
Dưới ách thống trị của Trung Quốc, từ năm 111 TCN đến năm 939, miền Bắc Việt Nam – Giao Chỉ (Jiaozhi) cùng Quảng Đông và Quảng Tây tạo thành Giao Châu (Jiaozhou). Sau khi thiết lập quan hệ thương mại và chính trị giữa Trung Quốc và các vùng biển phía Nam (Nam Hải), Giao Châu trở thành bến cuối trong thương mại đường biển. Cảng chính là Liên Lâu thuộc Giao Chỉ, có lẽ ở rìa châu thổ sông Hồng, gần Hà Nội ngày nay. Điều này không có nghĩa là tàu thuyền Mã Lai đi qua các cảng Đông Nam Á đến miền Nam Trung Quốc không tới Quảng Châu. Nhưng các thương gia có lẽ thấy việc đi ra ngoài Giao Chỉ là bất tiện và không cần thiết, vì họ đã giao dịch được một cách dễ dàng ở đây. Những thương nhân nước ngoài đến Liên Lâu là những người đến từ Champa và Phù Nam, người Mã Lai, người Java, người Ấn Độ, người Ceylon (Sri Lanka ngày nay), và người Ả Rập.
Sau thế kỷ V, do những thăng trầm chính trị và các cuộc tấn công vùng duyên hải của Champa, Quảng Châu đôi khi vượt Liên Lâu về tầm quan trọng thương mại. Tuy nhiên, Giao Chỉ tiếp tục khai thác một phần lớn thương mại hàng hải với các quốc gia nằm bên ngoài vịnh Xiêm và eo biển Malacca. Sau đó, năm 758, Quảng Châu bị các thương nhân Ba Tư và Ả Rập quay lưng vì họ bất bình với sưu cao thuế nặng của quan lại Trung Quốc. Cộng đồng thương nhân nước ngoài, đặc biệt là các thương nhân tham gia vào tuyến đường hàng hải phía Nam, bắt đầu chuyển sang buôn bán trên bờ biển Việt Nam. Khu vực thuộc Hà Nội ngày nay được hưởng lợi nhiều nhất từ việc di dời cơ sở hoạt động của các thương gia nước ngoài. Đây vẫn là trung tâm thương mại vùng Nam Hải cho đến cuối thế kỷ VIII, và sự thịnh vượng của nó đã khiến bờ biển miền Bắc Việt Nam bị đánh phá vào năm 767 bởi những người từ “Shepo và Kunlun”, những người có lẽ đến từ bán đảo Mã Lai hoặc các đảo của Indonesia để tranh giành ưu thế về thương mại. Thành công về kinh tế của Liên Lâu cũng ảnh hưởng đến thương mại của Quảng Châu, đến mức vào năm 792, thủ lĩnh vùng Lĩnh Nam đã phải thỉnh cầu hoàng đế Trung Hoa cho đóng cửa chợ miền Bắc Việt Nam.
Trong những thế kỷ đầu tiên sau CN, nhờ vào vị trí thương mại vững chắc của mình, quận Giao Chỉ đóng một vai trò trung gian quan trọng giữa Trung Quốc và Ấn Độ. Kể từ thời Hán, tất cả các vương quốc phía Nam đến cống nạp cho hoàng đế Trung Hoa đều phải đi qua đây. Năm 132, các con tàu chở sứ thần được cho là do vua nước Yediao của người Java cử đến diện kiến Hán Thuận Đế lần đầu tiên đã đi qua Giao Chỉ. Những Phật tử hành hương cũng thường ghé qua khu vực này, nơi họ tìm thấy những sư thầy biết đọc tiếng Trung, tiếng Phạn, và có lẽ là cả tiếng Java – những người có thể làm phiên dịch viên và giúp biên dịch kinh kệ. Ngay từ thế kỷ III, Liên Lâu đã trở thành một trung tâm Phật giáo lớn, với hơn 20 ngôi chùa và hơn 500 nhà sư. Đến khi nhà hành hương người Hoa Nghĩa Tịnh đến đây vào thế kỷ VII, Liên Lâu được xem như một điểm dừng chân quan trọng trước khi vào Trung Quốc, không phải chỉ vì nó là một trung tâm thương mại, mà còn vì nó đã phát triển thành một trung tâm tôn giáo lớn cho các Phật tử hành hương.
Nhưng dân đi biển Mã Lai chịu trách nhiệm mở rộng toàn bộ tuyến đường biển từ Ấn Độ đến Trung Quốc cũng có thể là một trở ngại lớn cho sự phát triển thương mại của miền Bắc Việt Nam thời xưa. Như đã đề cập ở trên, vào thế kỷ V, tàu thuyền của người Java bị đe dọa bởi nạn cướp biển trong khu vực bờ biển Champa. Bên cạnh cuộc đột kích năm 767, sử liệu Trung Quốc cũng cho biết bờ biển miền Bắc Việt Nam đã bị cướp biển Kunlun cướp phá dưới thời nhà Đường (618-906). Dân đi biển “Kunlun” được hưởng lợi từ buôn bán lẫn từ cướp bóc: nếu việc tấn công vào người dân vùng ven biển hoặc vào một đoàn tàu nào đó bị coi là rủi ro, họ sẽ tỏ ra là các thương nhân ôn hòa; còn nếu họ cảm thấy mình đủ mạnh, thì họ sẽ hành động như những tên cướp biển. Nhưng vì những hành động cướp biển này mà cư dân tất cả các vùng biển trong khu vực, từ Vịnh Bắc Bộ đến Java, từ bán đảo Mã Lai và Sumatra đến Moluccas, đều ở trong tình trạng liên tục trả đũa nhau. Chúng ta cũng đã thấy rằng các vua Champa từng cử những người đi biển này xâm lược lãnh thổ Việt Nam trong các cuộc viễn chinh mang lại lợi ích cho Champa và đồng thời cải thiện tình trạng kinh tế của cộng đồng thương mại nước này.
Từ thế kỷ XI đến thế kỷ XV
Mặc dù khôi phục được nền độc lập vào giữa thế kỷ X, Việt Nam lại đánh mất thứ hạng trước đây của mình trong thương mại vùng Nam Hải. Có rất ít bằng chứng về sự tham gia của Việt Nam vào thương mại hàng hải. Với sự gia tăng số lượng các cảng mới trên bờ biển Đông Nam Trung Quốc (Phúc Châu và Tuyền Châu bổ sung cho địa điểm cũ là Quảng Châu), Trung Quốc thấy việc giành lại thuộc địa cũ không còn đem lại nhiều lợi ích thương mại. Tuy nhiên, Việt Nam dần dần thích nghi với các mô hình thương mại mới đang hình thành vào thế kỷ XI, khi sự tập trung tuyến đường quốc tế qua các cảng của Srivijaya dọc theo eo biển bị gián đoạn bởi cuộc tấn công của Chola năm 1025, và các cảng phía đông Java bắt đầu thu hút thương nhân từ Ấn Độ, Trung Quốc và Đông Nam Á lục địa, cũng như từ các đảo phía Đông.
Sử sách Việt Nam ghi lại rằng vào năm 1066, những viên đá quý phát quang đã được các thương gia người Java mua với giá cao. Nhưng chỉ đến năm 1149, người ta mới chính thức nhắc đến sự xuất hiện của các tàu buôn từ ba nước Java, “Lộ Hạc” (Lavo hoặc Lopburi) và Xiêm. Những thương nhân này đã xin được ban cho một địa điểm để họ sinh sống và buôn bán. Sau đó, họ được phép thành lập một khu định cư gọi là Vân Đồn trên một hòn đảo ngoài khơi thị xã Quảng Yên ngày nay, nằm ở phía Đông Hà Nội. Vị trí này được chọn trên hết với mục đích ngăn chặn người nước ngoài xâm nhập vào nội địa. Tuy nhiên, không lâu sau, Vân Đồn đã trở thành một hải cảng hưng thịnh kết nối với các tỉnh Phúc Kiến và Quảng Đông của Trung Quốc, nơi tập trung của các tàu buôn đến từ khu vực giáp với Vịnh Xiêm và từ các đảo, đặc biệt là Java. Sự xuất hiện của các thương nhân từ Tam Phật Tề (Palembang) được ghi lại cụ thể vào năm 1184. Cái tên Vân Đồn, nghĩa đen là “đồn mây”, ban đầu có thể ám chỉ việc các tàu buôn nước ngoài tụ tập ở đó như những đám mây.
Vân Đồn không phải là trung tâm thương mại quốc tế duy nhất của Việt Nam. Người nước ngoài còn được phép cư ngụ tại ba cảng biển khác ở trung tâm tỉnh Nghệ An. Hoạt động của các cảng này rõ ràng có liên quan đến sự phát triển của một tuyến đường thương mại trên bộ vào thế kỷ XI. Tuyên đường này đi từ bờ biển về phía Tây, băng qua các dãy núi đến thung lũng sông Mê Kông, sau đó xuống Campuchia. Qua đó, vàng bạc của Việt Nam có thể đã đến Campuchia, đến Kelantan trên bờ biển phía Đông bán đảo Mã Lai, đến Srivijaya trên bờ biển phía Đông Sumatra, và cuối cùng là đến Java. Đổi lại, người Việt Nam lấy được gia vị cùng nhiều hàng hóa địa phương và quốc tế có giá trị khác.
Sau thế kỷ thứ XIII, dưới thời nhà Trần, cùng với sự suy tàn của các cảng biển Nghệ An, tầm quan trọng của Vân Đồn tăng lên, lối vào cảng này ngày càng được bồi đắp. Năm 1349, nơi này hình thành được một tổ chức hành chính có cấu trúc hơn nhiều và mở rộng hoạt động. Đặc biệt, chức vụ thanh tra các vấn đề hàng hải đã được thiết lập, và một đơn vị đồn trú được đặt ở đây để duy trì trật tự. Nhà cầm quyền Việt Nam cho rằng cần kiểm soát chặt chẽ hơn vì trong năm trước đó, các tàu buôn Java đã lừa mua ngọc trai từ ngư dân địa phương, từ đó tước đi nguồn thu có lợi của triều đình.
Kế vị nhà Trần vào thế kỷ XV, nhà Lê ban hành các quy định chặt chẽ hơn đối với việc buôn bán và ra vào của người nước ngoài. Theo đó, các thương nhân nước ngoài chỉ được phép vào một số nơi cụ thể, trong đó có Vân Đồn. Theo quy định mới, họ phải có giấy phép thương mại và hàng hóa của họ phải được kiểm tra nghiêm ngặt. Người bản xứ thì phải xin giấy phép để được bán hàng cho người nước ngoài. Bất kỳ ai không có lý do chính đáng mà vào khu định cư hoặc trạm kiểm soát của Vân Đồn ở vùng biên cương sẽ bị trừng phạt bằng tù khổ sai hoặc trục xuất. Nhưng một số quy tắc về thủ tục tiếp đón “các sứ thần Champa, Lào, Xiêm, Java và Lạt Gia (Malacca)” tại kinh đô cũng được ban hành vào năm 1485. Có sự phân biệt rõ ràng giữa thương nhân và quan lại triều đình. Theo đó, quan hệ ngoại giao thường xuyên đã từng bước được thiết lập. Sử sách Việt Nam cũng đề cập đến một cuộc tiếp đón một đại sứ người Java tên là “Na-bôi” tại triều đình, và cống phẩm được dâng lên vua Lê vào năm 1467 bởi các tàu đi biển từ “Tô Môn Đáp Lạp” (tiếng Trung là Sumendala, chỉ Sumatra).
Có vẻ kỳ lạ nhưng Malacca dường như chỉ được nhắc đến lần đầu tiên vào năm 1485, trong khi nơi này từ lâu đã nổi lên như một trung tâm thương mại lớn của khu vực. Dù thế nào, vào nửa sau thế kỷ XV, Việt Nam đã gửi mặt hàng chính của mình là vàng bạc đến Malacca, đặc biệt là để đổi lấy lưu huỳnh. Vàng Việt Nam, được đánh giá là tốt nhất Đông Nam Á, kết hợp với lượng lớn hơn đến từ Sumatra, đã giúp Malacca trở thành trung tâm vàng chính ở châu Á, mặc dù không phải trên thế giới. Tuy nhiên, nếu chúng ta đề cập đến tác phẩm lớn đầu tiên của Bồ Đào Nha về châu Á, “Suma Oriental” do Tomé Pires viết ngay sau khi người Bồ Đào Nha chinh phục Malacca năm 1511, thì có rất ít tàu Việt Nam đến thẳng Malacca. Thay vào đó, Quảng Châu là bến cảng chính của người Việt Nam, và họ đi từ đó đến Malacca trên những chuyến tàu chở hàng của Trung Quốc.
Từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII
Tình hình thương mại Đông Nam Á thay đổi mạnh mẽ vào thế kỷ XVI. Sau khi chinh phục Malacca vào năm 1511, người Bồ Đào Nha đã giành được quyền chỉ huy toàn bộ trọng tâm chiến lược và thương mại của eo biển Mã Lai. Sự thâm nhập của họ là nhằm mục đích đưa các “hòn đảo gia vị” ra cạnh tranh quốc tế trong những năm tiếp theo. Năm 1567, nhận thấy rằng các biện pháp quân sự không đủ để dập tắt nạn buôn lậu và cướp biển trên bờ biển Trung Quốc, nhà Minh đã dỡ bỏ lệnh cấm buôn bán tư nhân với Đông Nam Á. Sau đó, vào cuối thế kỷ, người Tây Ban Nha và người Hà Lan bước vào cuộc chiến và nhanh chóng xây dựng trung tâm của riêng họ tại Manila và Batavia.
Những sự kiện này dường như không ảnh hưởng ngay lập tức đến Việt Nam, vì có rất ít bằng chứng cho thấy thương mại Việt Nam đã tham gia vào những thay đổi đang diễn ra như thế nào. Có lẽ Việt Nam đã tiếp tục giao thương với Quảng Châu, và bắt đầu buôn bán với trung tâm mới của Bồ Đào Nha là Macao vào nửa sau thế kỷ XVI. Người Việt có thể đã giao thương trên Biển Đông với Brunei, Johor và Malacca thuộc Bồ Đào Nha. Tuy nhiên, tình hình nội bộ rắc rối, cũng như ảnh hưởng ngày càng tăng của Nho giáo và thành kiến của nó đối với thương mại, chắc chắn đã ảnh hưởng đến các hoạt động buôn bán đó.
Tuy nhiên, tình hình đã thay đổi sau khi quyền lực được chuyển giao vào tay hai gia tộc đối địch là chúa Trịnh và chúa Nguyễn. Sau khi chia cắt đất nước vào đầu thế kỷ XVII, nhà Trịnh ở miền Bắc và nhà Nguyễn ở miền Nam đều mở rộng thương mại quốc tế nhằm đảm bảo có đủ phương tiện cho cuộc xung đột vũ trang giữa hai bên. Ở miền Bắc Việt Nam, đầu tiên là người Hà Lan, sau đó là người Anh và người Pháp được chúa Trịnh cho phép thành lập nhà máy ở Phố Hiến nằm trên sông Hồng, cách Hà Nội khoảng 60 km về phía Đông Nam, trước khi họ được phép định cư ở kinh đô. Theo đó, nhiều mối quan hệ đã được phát triển với các khu định cư của người Châu Âu ở Batavia và Bantam (Java). Người Hoa, người Xiêm, người Nhật, người Mã Lai từ Trengganu đổ xô đến Phố Hiến. Tuy nhiên, sự quan tâm của chúa Trịnh đối với thương mại không kéo dài được bao lâu. Nó lụi tàn ngay sau khi cuộc giao tranh với nhà Nguyễn chấm dứt vào năm 1672, theo đó nhu cầu về vật liệu chiến tranh trở nên ít cấp thiết hơn. Hoạt động của người Châu Âu ngày càng bị cản trở. Đến đầu thế kỷ XVIII, họ đều bỏ cuộc, nhường chỗ cho các thương nhân Trung Quốc – những người bảo toàn được ưu thế của mình không chỉ nhờ quyền tự chủ hành chính mà họ được hưởng, mà còn vì khoảng cách gần với Trung Quốc và mạng lưới thương mại mà họ hình thành với cộng đồng người Hoa trên khắp Đông Nam Á.
Ở phía Nam vĩ tuyến 18, nhà Nguyễn cởi mở hơn với thương mại quốc tế. Chúa Nguyễn cũng tham gia vào đó với tư cách cá nhân, nhằm củng cố tài chính và tăng cường sức mạnh quân sự của mình. Vào khoảng năm 1600, cảng Hội An, hay còn được người Châu Âu gọi là Faifo, đã phát triển để đáp ứng các dòng chảy mới của thương mại quốc tế và nhu cầu của nhà nước miền Nam về hàng hóa và ngân quỹ. Các con tàu cảng này tiếp nhận di chuyển theo gió mùa: tàu thuyền đến từ phía Bắc (Trung Quốc, Nhật Bản) cập bến với gió đông bắt đầu vào tháng 10 và khởi hành với gió hè bắt đầu vào tháng 4; còn những người đến từ Ấn Độ, Malacca, Trengganu hoặc Batavia thì cập cảng với gió hè và rời đi khi gió đông thổi.
Tầm quan trọng tương đối của các nhóm thương nhân khác nhau đối với nhà Nguyễn được thể hiện trong khoản thuế mà họ phải chi trả vào thế kỷ XVII. Mức thấp nhất thuộc về những người ở ngay các bờ biển liền kề (500 chuỗi tiền khi cập bến, 50 chuỗi tiền khi khởi hành); mức thấp thứ hai dành cho các thương gia từ Phúc Kiến, Xiêm và Manila (2000 và 200), tiếp đến là Thượng Hải và Quảng Châu (3000 và 300), sau đó là các tàu từ Macao và Nhật Bản (4000 và 400), và cuối cùng là các tàu khác được cho là đến từ “biển phương Tây” (8000 và 800). Thomas Bowyear, phái viên Công ty Đông Ấn tại triều đình Huế vào năm 1696, đã ghi nhận rằng tàu thuyền thường xuyên đến Hội An không chỉ từ Quảng Châu và Macao, mà còn từ Nagasaki, Ayudhya, Phnom Penh, Manila và Batavia.
Nhưng một cuộc khủng hoảng sâu sắc đã làm lay chuyển phương Nam. Giữa thế kỷ XVIII, tình hình chính trị, xã hội và kinh tế miền Nam Việt Nam bắt đầu đổ vỡ. Thương mại quốc tế bị ảnh hưởng, kéo theo sự suy tàn của Hội An. Sau đó, cuộc nội chiến bùng nổ đã xua đuổi nhà Nguyễn khỏi kinh đô của họ. Hoàng tử Nguyễn Ánh, người kế vị ngai vàng triều Nguyễn, bị kẻ thù truy đuổi và phải chịu cảnh giam cầm khổ cực ở vịnh Xiêm. Vì tuyệt vọng, ông thậm chí còn quyết tâm đến Batavia hoặc Malacca để nhờ người Hà Lan hỗ trợ. Chúng ta biết rằng vua Xiêm đã viện trợ cho ông; nhưng chúng ta có thể giả sử một cách hợp lý rằng ông ta cũng đã cố gắng liên lạc với một số quốc vương Mã Lai để nhận được sự giúp đỡ trong việc giành lại lãnh thổ. Bằng mọi giá, ông ta đã cử các phái đoàn đi mua vũ khí và đạn dược, chắc chắn là tới Batavia và Malacca, ngoài ra còn đến Penang, Singapore và Johor.
Sau những cuộc tiếp xúc này, những mối quan hệ đặc quyền chắc chắn đã được thiết lập với một số quốc gia ở bán đảo Mã Lai. Điều này giải thích sự hiện diện của nhiều thương nhân Mã Lai ở Sài Gòn sau khi Nguyễn Ánh tái chiếm nơi này vào năm 1788. Vào thập niên cuối thế kỷ XVIII, Sài Gòn đã trở thành một trong những cảng chính trong thương mại quốc tế ở Biển Đông. Mặt khác, các cuộc trao đổi phái đoàn ngoại giao và quà tặng qua lại giữa hai bên đã diễn ra sau đó: sử sách nhà Nguyễn ghi lại những chuyến viếng thăm của các sứ thần Pattani năm 1789; sứ thần nước “Tam hoạt”, tên là “Giáp-tat-dan-diên” năm 1790; sứ thần “Chê-phi” của vua “vương quốc Java” năm 1795; sứ đoàn của “vương quốc Java” với cống phẩm năm 1797; và cuối cùng là sứ thần “A-bang-ca trac” của quốc vương Johor vào năm 1798. Tài liệu Trung Quốc “Hải lục chú” (Hai lu zhu), dựa trên lời kể của một thương gia Trung Quốc đi du lịch ở bán đảo Mã Lai từ năm 1782 đến năm 1795, đã chứng thực một phần các văn bản tiếng Việt khi kể về sự kiện triều cống thường niên của các vị vua Trengganu cho Việt Nam. Có vẻ như ngay trước khi nhà Nguyễn thống nhất đất nước, vương triều này đã thiết lập được mối quan hệ chính trị thường xuyên và công bằng với thế giới Mã Lai. Tuy nhiên, sau khi Gia Long giành lại ngai vàng ở Huế, các nguồn sử liệu Việt Nam không còn nhắc đến vấn đề này nữa.
Nửa đầu thế kỷ XIX
Đến thăm Việt Nam vào năm 1822, John Crawfurd, phái viên của Công ty Đông Ấn, cho biết rằng trong quá trình buôn bán, vương quốc này đã thu được hạt tiêu, đinh hương, hạt nhục đậu khấu, gỗ đàn hương và thiếc từ các nước Mã Lai, và rằng một vài người Việt thường xuyên đến buôn bán tại các cảng Châu Âu ở eo biển Malacca, đặc biệt là Singapore. Trong các khoản thuế triều đình thu được, một tỷ lệ tương đối là từ Hạ Châu, nghĩa là thuế do các thương thuyền từ Singapore, Penang và Malacca nộp. Do đó, quan hệ giao thương với bán đảo Mã Lai tương đối quan trọng trong hai thập kỷ đầu thế kỷ XIX, mặc dù một chỉ dụ năm 1809 đã cấm tàu Mã Lai đi lên phía Bắc Đà Nẵng thuộc miền Trung Việt Nam. Các thương nhân người Việt và người Hoa cư trú tại Việt Nam cũng phải xin giấy phép trước khi được đến các cảng Mã Lai ở nước ngoài. Tuy nhiên, không lâu sau, Jean-Baptiste Chaigneau, người được bổ nhiệm làm lãnh sự Pháp năm 1821 tại Huế, nhận xét rằng: “Chỉ còn rất ít người Mã Lai xuất hiện ở các cảng Nam Kỳ.”
Liệu có phải sự suy giảm hoạt động thương mại của người Mã Lai là do nạn cướp biển tái diễn trong vùng biển vịnh Xiêm và eo Malacca? Đến năm 1825, nạn cướp biển đã thực sự trở nên bền vững. Từ Penang đến New Guinea và từ Java đến Philippines, các hạm đội đã lùng sục khắp vùng biển để truy tìm kẻ cướp và nô lệ. Đặc biệt, eo biển Malacca tràn ngập những tên cướp biển. Những tên hung dữ nhất là người Lanun từ Mindanao và Balanini từ Biển Sulu. Với hải đoàn từ 10 đến 20 tàu, chúng đi dọc toàn bộ bờ biển bán đảo Mã Lai từ Trengganu đến Kedah, đồng thời cũng đến cả Bangka và Java. Sau khoảng năm 1840, hoạt động thương mại bản địa của các Khu định cư Eo biển Malacca bắt đầu phải đối mặt với một kẻ thù mới: người Hoa. Mặc dù thường giới hạn hoạt động ở bờ biển của họ hoặc ở vịnh Xiêm, nhưng người Hoa cũng thường xuyên xuất hiện xa về phía Nam như ở khu vực lân cận Singapore. Những tàu buôn không được trang bị vũ khí và thường đi một mình hoặc theo nhóm chỉ 3-4 tàu dễ dàng trở thành con mồi của những tên cướp biển này.
Cướp biển thường đánh phá vùng duyên hải miền Nam Việt Nam, chủ yếu là Hà Tiên, nhưng đôi khi cũng bao gồm cả các tỉnh xa hơn về phía Bắc như Bình Thuận và Khánh Hoà. Các nhà cầm quyền Việt Nam đã chiến đấu trong vô vọng để chống lại những kẻ cướp bóc được gọi bằng cái tên chung là “cướp biển Chà-và”. Một đơn vị đồn trú được đóng trên đảo Phú Quốc ngoài khơi bờ biển Hà Tiên vào năm 1833 và một pháo đài được dựng trên đảo Poulo Condor vào năm 1836, nhưng tất cả đều không hiệu quả trước một đối thủ có đặc điểm lớn nhất là tính cơ động cao.
Tuy nhiên, cướp biển không phải nguyên nhân chính dẫn đến sự sụt giảm trong hoạt động thương mại của người Mã Lai. Điều này chủ yếu xuất phát từ một xu hướng nhận thấy được từ những năm cuối thập kỷ thứ hai của thế kỷ XIX. Nhận thức được mối đe dọa tiềm tàng do sự xuất hiện của người Châu Âu ở các vùng biển phía Nam đem lại, triều đình Huế đã thực hiện nhiều biện pháp bảo hộ nhằm hạn chế hoạt động thương mại nước ngoài ở quy mô lớn. Do đó, thái độ nghi ngờ đối với người ngoại quốc lan rộng. Năm 1825, hai tàu có vũ trang cùng một phái đoàn quan lại đã được cử đến Singapore với lý do là mua len và đồ thủy tinh. Trên thực tế, mục tiêu thực sự của các phái viên này là báo cáo về điều kiện và quan điểm của những người Châu Âu định cư tại eo biển Malacca. Kể từ đó, hàng năm, các phái đoàn của triều đình được cử đến Batavia, Singapore, Penang và Manila để giao thương, nhưng mục đích chính của họ là thu thập thông tin về tình hình chính trị và các kế hoạch của người Châu Âu. Triều đình đương nhiên vẫn duy trì độc quyền của mình đối với các giao dịch với những trung tâm thương mại này. Những giao dịch đó được thực hiện ở quy mô khá nhỏ: xuất khẩu đường, gạo, ngà voi, sừng tê giác, đồng, lụa, quế, đổi lại là nhập khẩu thiếc, diêm tiêu, vũ khí và quần áo. Tuy nhiên, sự độc quyền của triều đình vẫn không diệt trừ được thương mại tư nhân thông qua trung gian là các thương nhân người Hoa, mặc dù các tàu không có vũ khí của họ khó có thể chống lại được những cuộc tấn công của cướp biển.
Trong suốt phần tư thứ hai của thế kỷ XIX, quan hệ với thế giới Mã Lai bị giới hạn ở một vài địa điểm. Những địa điểm này rõ ràng được lựa chọn vì chúng là các trung tâm bị Châu Âu chi phối. Chúng hoàn toàn ngừng hoạt động sau năm 1850, khi nguy cơ Pháp can thiệp ngày một tăng đã kích động triều đình Huế ngừng cử tàu thuyền của mình ra nước ngoài, và ngăn cản dân chúng tiếp xúc với người nước ngoài. Người Hoa khi đó là những thương nhân ngoại quốc duy nhất ghé thăm các cảng của Việt Nam và làm đầu mối liên lạc của Việt Nam với thế giới bên ngoài. Điều này giải thích tại sao sau năm 1860, khi Pháp xâm chiếm Nam Kỳ và mở cảng Sài Gòn cho hoạt động thương mại tổng hợp, việc nhập khẩu của thuộc địa mới của Pháp phần lớn là do các thương nhân Singapore tài trợ; và một số tàu thuyền qua lại giữa các cảng của Pháp và Singapore là do thương nhân người Hoa ở eo biển Malacca sở hữu. Đặc biệt, Singapore đã xử lý một phần đáng kể lượng gạo xuất khẩu của Sài Gòn, một phần lớn trong số đó được tái xuất khẩu sang các nước lân cận.
Tài liệu tham khảo
Bayard, D. 1980. “The Roots of Indochinese Civilization.” Pacific Affairs 51(1): 89-114.
Bùi Quang Tùng, Nguyễn Hương, Nguyễn Thế Anh. 1990. Le Dai-Viết et ses voisins, d’aprè le Dai Viêt Su Ky Toàn Thu (Mémoires historiques du Dai-Việt au complet). Paris: L’Harmattan.
Christie, A.H. 1979. “Lin-i, Funan, Java,” trong R.B. Smith & W. Watson (chủ biên) Early South East Asia: Essays in Archaeology, History and Historical Geography. London: Oxford U.P.
Coedès, G. 1968. The Indianized States of Southeast Asia. Honolulu: East-West Center Press.
Cortesao, A. (chủ biên) 1944. The Suma Oriental of Tomé Pires, an Account of the East, from the Red Sea to Japan. London: The Hakluyt Society.
Cushman, J.W. & Milner, A.C. 1979. “Eighteenth and Nineteenth-century Chinese Accounts of the Malay Peninsula.” Journal of the Malaysian Branch of the Royal Asiatic Society lii (1): 1-56.
Đại Nam nhất thống chí. Lục tỉnh Nam. 1973. Sài Gòn.
Đại Nam thực lục tiền biên – chính biên. 1962. Hà Nội
Ferrand, G. 1919. “Le K’ouen-Louen et les anciennes navigations interocéaniques dans les mers du Sud.” Journal Asiatique xiii: 239-333; xiv: 5-68, 201-241.
Hall, D.G.E. 1968. A History of South-East Asia. London: Macmillan.
Hall, K.R. 1985. Maritime Trade and State Development in Early Southeast Asia. Honolulu: University of Hawaii Press.
Han Zhenhua. 1985. “The location of the Southern Indochinese Country of Heiling or Zhepo.” Papers on Far Eastern History. Canberra: Australian Nat. Univ. 1985 (March): 1-20.
Hirth, F., & Rockhill, W.W. 1966. Chau Ju-Kua: His work on the Chinese and Arab Trade in the Twelfth and Thirteenth centuries, Entitled Chu-fan-chi. Amsterdam.
Hutterer, K.L. (chủ biên) 1977. Economic Exchange and Social Interaction in Southeast Asia: Perspectives from Prehistory, History and Ethnography. Ann Arbor: University of Michigan Press.
Jacques, C. 1979. “Funan. Zhenla. The Reality Concealed by These Chinese Views of Indochina,” trong R.B. Smith & W. Watson (chủ biên) Early South East Asia. Essays in Archaeology, History and Historical Geography. London: Oxford U.P.
Krom, N.J. 1931. Hindoe-Javaansche Geschiedenis. ‘s-Gravenhage: Nijhoff.
Lafont, P.B. 1988. “Aperçu sur les relations entre le Campa et l’Asie du Sud-Est,” trong Actes du séminaire sur le Champa organisé à l’Université de Copenhague le 23 mai 1987. Paris: CHCPI.
Lafont, P.B. 1990. “Aperçu sur quelques relations maritimes et commerciales entre le monde indochinois et la péninsule malaise du XVe au XVIIIe siècle,” trong Le mode indochinois et la péninsule malaise. Kuala Lumpur.
Lamb, A. 1970. The Mandarin Road to Old Hué. Hamden: Archon Books.
Lê Thành Khôi. 1981. Histoire du Vietnam, des origines à 1858. Paris: Sudestasie.
Lombard, D. 1987. “Le Campa vu du Sud.” Bulletin de l’Ecole française d’Extrême-Orient. lxxvi: 311-317.
Lombard, D. 1990. Le carrefour javanais. Essai d’histoire globale. Paris: EHESS.
Ma Huan. 1970. Ying-yai Sheng-lan. The Overall Survey of the Ocean’s Shores (1433). Dịch và biên tập bởi J.V.G. Mills. Cambridge University Press.
Ma Tuan-Lin. 1883. Ethnographie des peuples étrangers à la Chine, dịch bởi Marquis d’Hervey de Saint-Denys. Geneva.
Malleret, L. 1959-63. L’archéologie du delta du Mékong, Paris: EFEO.
Manguin, P.Y. 1972. Les Portugais sur les côtes du Vietnam et du Champa. Paris: EFEO.
Manguin P.Y. 1984. Les Nguyên, Macau et le Portugal. Aspects politiques et commerciaux d’une relation privilégiée en Mer de Chine, 1773-1802. Paris: EFEO.
Marr, D.G., & Milner, A.C. (eds.) 1986. Southeast Asia in the 9th to 14th Centuries. Singapore: ISEAS.
Mills, J.V. 1974. “Arab and Chinese Navigators in Malaysian Waters in About A.D. 1500.” Journal of the Malaysian Branch of the Royal Asiatic Society xlvii (2): 1-82.
Nguyễn Thế Anh. 1970. Kinh tế và xã hội Việt Nam dưới các vua triều Nguyễn. Sài Gòn: Lửa Thiêng.
Nguyễn Thế Anh. 1990. “Les relations du Viêt-Nam avec le monde malais jusqu’au milieu du XIXe siècle,” in Le monde indochinois et la péninsule malaise. Kuala Lumpur.
Stein, R.A. 1947. Le Lin Yi. Sa localisation, sa contribution à la formation du Champa et ses liens avec la Chine. Pékin.
Taylor, K.W. 1983. The Birth of Vietnam. Berkeley: University of California Press.
Trịnh Hoài Đức. 1863. Histoire et description de la Basse Cochinchine, dịch bởi G. Aubaret. Paris.
Un émissaire vietnamien à Batavia: Phan Huy Chu, Hai trinh chi luoc” Récit sommaire d’un voyage en mer” (1833), dịch bởi Phan Huy Lê, Claudine Salmon & Tạ Trọng Hiệp. Paris: Cahier d’Archipel 25.
Wang Gungwu. 1958. “The Nanhai Trade.” Journal of the Malayan Branch of the Royal Asiatic Society xxxi (1).
Wheatley, P. 1961. The Golden Khersonese: Studies in the Histroical Geography of the Malay Peninsula Before A.D. 1500. Kuala Lumpur.
Whitmore, J.K. 1983. “Vietnam and the Monetary Flow of Eastern Asia, Thirteenth to Eighteenth Centuries,” trong J.F. Richards (chủ biên) Precious Metals in the Later Medieval and Early Modern Worlds. Durham: Carolina Academic Press.
Wolters, O.W. 1982. History, Culture and Region in Southeast Asian Perspectives. Singapore: ISEAS.
Wong Lin Ken. 1960. “The Trade of Singapore, 1819-69.” Journal of the Malayan Branch of the Royal Asiatic Society xxxiii (4).
Woodsicd, A.B. 1971. Vietnam and the Chinese Model. Cambridge: Harvard University Press.
Yamamoto T. 1981. “Vân-dôn. A Trade Port in Vietnam.” Memoirs of the Research Department of the Toyo Bunko, No. 39.
[1] Thế giới Mã Lai, hay Vương quốc Mã Lai (tiếng Anh: Malay World; tiếng Mã Lai: Dunia Melayu/Alam Melayu): nghĩa hẹp chỉ các quốc gia và vùng lãnh thổ Đông Nam Á coi tiếng Mã Lai là quốc ngữ hoặc một ngôn ngữ thiểu số quan trọng, bao gồm Brunei, Indonesia, Malaysia, Singapore và miền Nam Thái Lan; nghĩa rộng chỉ một nền chính trị hoặc một nhóm văn hóa chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Mã Lai (do trong lịch sử từng bị cai trị bởi các quốc vương Mã Lai) như bán đảo Malaysia, các khu vực ven biển của Sumatra và Borneo, v.v. (ND).
[2] Tiếng Anh là Hoabinhian culture (ND).