Bài và ảnh: Maynard Owen Williams
Ngô Bắc dịch
Cuộc đấu cờ người ở miền núi phía Bắc Việt Nam, vở tuồng Trung Hoa, buổi hát chầu văn, cảnh sinh hoạt thanh bình trên sông Hương… là những cảnh tượng sinh động được nhà báo Mỹ Maynard Owen Williams miêu tả trong phóng sự ảnh “By Motor Trail Across French Indochina” đăng trên tạp chí National Geographic số tháng 10 năm 1935, các trang 487-534. Tạp chí Phương Đông trân trọng giới thiệu tới bạn đọc bản dịch trích đoạn về Việt Nam trong phóng sự này. Các ảnh chụp và chú thích ảnh đều là của tác giả.
***
Nằm giữa Ấn Độ bất ổn và Trung Hoa sóng gió là một ốc đảo thanh bình và xinh đẹp – Đông Dương thuộc Pháp, bao gồm một thuộc địa và bốn vùng bảo hộ.
Các công nhân cao su, được thuê để lấy mủ các lớp cây được trồng thẳng thớm và sinh trưởng mau chóng, vốn là hậu duệ của cây rừng, nay không còn bị vắt kiệt vì thiếu nhân công như trong thời kỳ bùng nổ của ngành cao su.
Sau mười năm học tập và tiếp xúc với phương Tây tại Pháp, Hoàng đế Bảo Đại, vị Hoàng đế 19 tuổi của An Nam, trở về vào năm 1932 không phải để đối nghịch với các quan lại bằng các phong cách ngoại quốc hay đối đầu với người dân của ông bằng những thay đổi cưỡng bách, mà hiếu kính cúi lạy trước mộ phụ hoàng và bày tỏ lòng kính trọng đối với vị Nhiếp chính cao quý và đáng kính “đã tiếp quản” cho đến khi ngài về nước.
Đường nét của một bức tranh Trung Hoa
Dọc theo biên cương phía bắc của Đông Dương trải dài một vùng đất thần tiên như được phác họa bởi các họa sĩ thời Nam Tống, triều đại đã phái một sứ bộ ngoại giao đến Đông Dương nhằm mang lại hòa bình giữa Chiêm Thành và An Nam gần một nghìn năm trước đây.
Các mỏm đá vụt nhô lên, khi thì lởm chởm và trơ trụi ngoại trừ một vài cây thông ưa phiêu lưu, khi thì vươn lên trong các đám cây cối rậm rạp bên trên một thung lũng mờ ảo, được bài trí một cách vô quy tắc. Suốt con đường từ biên giới Vân Nam cho đến Vịnh Hạ Long tuyệt vời, nơi mà từ mặt nước mọc lên các đảo đá nhỏ giống như những bức tường rải rác trên nền biển cả mênh mông, người ta đang sống trong bầu không khí của một bức tranh thủy mặc.
Con đường xe hơi mà tôi đi trước tiên kéo thẳng xuyên qua các đồng bằng phù sa, bị cắt ngang bởi những con đê lớn hơn đê ngăn sông Mississippi.
Không lâu, nó tự quay ngược lại thành các đường cong chóng mặt, nghiêng xuống vùng mờ ảo mềm mại mà các họa sĩ Trung Hoa rất quen thuộc – các màn sương bảng lảng bao la như biển và biến các ngọn núi nội địa thành các đảo nhỏ u huyền. Một bên sườn dốc bị vướng rừng rậm không thể vượt qua; sườn bên kia là một vách dựng đứng trơ trụi nhô ra trên những cánh đồng lúa nước.
Những người dân sơ khai đi theo các lối mòn âm u xuyên qua vùng đất huyền bí này. Quân thổ phỉ ẩn hiện tới lui từ điểm phục kích này đến điểm phục kích kia. Những người dân bộ lạc, khai khẩn được đất trồng lúa từ rừng rú, dựng lều tại các khu khai quang mà họ phải mất bao công sức mới có được. Lòng các con suối dâng cao vì bão được dùng như các lối đi cho nhà buôn cũng như quân thổ phỉ, và từ một tiền đồn biệt lập này đến một doanh trại khác, binh sĩ Pháp và “lính không chính quy” gốc người Thổ kiên quyết giương cao màu cờ tam tài, mang lại hòa bình cho những ai sống dưới lá cờ đó.
Cuối các rặng núi đứt đoạn này là các mỏ than trông như các đấu trường La Mã không ngừng mở rộng lộ thiên dưới ánh nắng mặt trời, dọc theo những bậc thang khổng lồ của nó, những người thợ Bắc Kỳ đội nón lá chóp thấp đào mỏ khai thác toàn bộ các phần bụi đen của vùng nông thôn. Xa hơn về phía nam là vùng trồng cao su đất đỏ bao quanh bởi những cánh rừng rậm rạp hoang dại, hay những cánh đồng lúa nước làm nên sản nghiệp kếch sù của các con buôn Trung Hoa được thần may mắn phù trợ tại Chợ Lớn – các vùng đang phát triển mau chóng nơi dân số đã tăng gấp ba lần trong bảy mươi năm.
Của cải đã được gom góp tại các phần khác của Đông Dương thuộc Pháp, nhưng miền thượng du xanh tươi hiểm trở của Bắc Kỳ mới là nơi mài giũa các vị thống chế của nước Pháp. Tại đây, Chính quyền đã dần dần dựng lên một bức tường thành của lòng trung thành và hòa bình chống lại sự bất ổn, đào tạo nhân viên nhằm cho sự phục vụ rộng lớn hơn.
Điểm đến cuối cùng của một lối mòn dài ngang qua Á châu
Họa sĩ của đoàn thám hiểm, Alexandre Iacovleff, và tôi, được Toàn quyền Pasquier hối thúc thực hiện một cuộc khảo sát đầy đủ nhất có thể, đã khởi sự công việc với các bộ tộc Thái, Mán, Lolo và Mèo đẹp như tranh vẽ, sinh sống và bảo vệ biên giới phía bắc, mà đi qua biên giới đó là nơi sinh sống của các bộ lạc anh em của họ. Đồng hành với chúng tôi còn có họa sĩ Louis Rollet, người đã đoạt giải Prix d’Indochine.
Vào một buổi sáng trời mưa, với một vị khách là một nhà quay phim địa phương, chúng tôi khởi hành đi Cao Bằng và xa hơn. Iacovleff và Rollet vừa đi trước cùng với Jean Yves Claeys, một nhà khảo cổ trẻ xuất sắc được Toàn quyền chỉ định làm hướng dẫn viên cho chúng tôi khắp vùng Đông Dương.
Một giờ sau khi vượt qua chiếc cầu Doumer dài một dặm, mà việc xây dựng nó đánh dấu sự chiến thắng của kỹ thuật đối với vị thủy thần được cầu khấn, chúng tôi đến một ngôi làng có con đường chính được giăng những lá cờ sặc sỡ nhưng ướt sũng.
“Lễ hội gì vậy?”, tôi hỏi, hy vọng có một cuộc lễ nhiều màu sắc.
“Cuộc Du hành Trung Á của Citroen theo lịch trình sắp đi ngang qua đây bất kỳ lúc nào”, một sĩ quan trẻ thông thái của cảnh sát bản xứ trả lời.
Chiếc xe của Iacovleff đã đi ngang qua mà không ai biết. Làm sao giải thích rằng chiếc xe của tôi đại diện cho tất cả những gì còn lại của cuộc thám hiểm? Tôi đã gửi một lời nhắn đến viên Lý trưởng và lái xe xuyên qua cơn mưa, nhập bọn cùng với các bạn tôi tại Tòa Công Sứ nơi ít nhất ba vị Thống chế của nước Pháp đã từng trú ngụ.
Một đám tang giả là điểm nổi bật của một lễ hội
Xuyên qua những con đường dưới mưa, giữa các hàng dài khán giả, nhiều người trong số họ cầm những chiếc ô chỉ to hơn chiếc nón của họ một chút, là một đám tang với đầy đủ chi tiết ngoại trừ thi hài.
Những tấm lụa cũ hiếm có và các mảnh trang trí bằng giấy mỏng lòe loẹt được kết hợp trong đám ma giả này.
Các nhà sư có râu lưa thưa, bao quanh bởi những người gõ chiêng, ngồi trên những chiếc xe kéo. Đàng trước nhà táng lòe loẹt, được trang trí một cách nghịch lý bằng chữ Thọ, là những người thọ tang đặc biệt trong y phục màu trắng đang đi bộ.
Một trong những người này, tượng trưng cho thân nhân gần gũi nhất, chống một chiếc gậy thô sơ. Một tấm vải màn dệt tay thô sơ che phủ đầu khi ông ta đi giật lùi chậm chạp dọc theo con đường đám tang, khuôn mặt của ông ta luôn luôn hướng về phía quan tài đi theo ông ta đến ngôi mộ.
Các nhà sư, khoác những tấm vải in màu mè hay các tấm gấm cũ mỡ màng trên y phục bình thường của họ, vẫn giữ cùng vẻ nghiêm trang, giống như các kẻ đứng xem, như thể đó là một đám tang thật sự.
Khá lạ lùng, những người duy nhất không mảy may coi trọng cảnh tượng ngoạn mục này chính là một vài người khuân vác mệt mỏi, chất trên vai họ là bộ khung bằng tre nặng trên đó bộ màn trướng xe tang trống rỗng được khiêng theo.
Các bộ tộc miền núi xuống thị trấn
Một cơn mưa rào nặng hạt hướng chúng tôi đến một ngôi đình nhỏ trong một công viên địa phương, nơi đó có các đại diện đến từ những nơi xa xôi của các bộ tộc miền núi – người Nùng, người Thái, và người Mán. Một người đàn ông bộ tộc mang cây súng hỏa mai như được dùng trong việc phòng thủ biên cương. Nó không có báng súng và bộ phận máy móc bị phơi bày dưới mưa và bụi, nhưng trong bàn tay ông ta nó là một vũ khí đáng sợ.
Một số phụ nữ, trên đầu cạo trọc quấn tấm khăn được giữ yên tại chỗ bằng các chuỗi hạt có màu sắc sáng chói, mặc áo dệt tại nhà được trang trí bằng hình thêu ngôi sao, mũi tên, chữ vạn, hình thoi và các trang sức bằng bạc nặng nề.
Nơi đây cũng như ở các nơi khác, không có việc các sĩ quan Pháp bắt buộc dân chúng bộ tộc phải làm dáng. Toàn thể buổi lễ là một lễ hội phổ thông, được vui hưởng bởi dân bản xứ của Lạng Sơn.
Các chàng trai và cô gái, đứng ở các đầu đối diện nhau của một bãi đất dài, ném những quả tạ có buộc dây – giống như các chiếc ná có buộc hòn đá – vào một mục tiêu bằng giấy trên cao khoảng hơn 12 mét so với mặt đất. Mỗi cầu thủ khéo léo bắt lấy quả tạ do đối thủ của mình ném ra, và cuộc tranh đua diễn ra sôi nổi. Trò chơi không chấm dứt cho đến khi mục tiêu trên cao, không lớn hơn một đĩa ăn khổ to, hoàn toàn bị phá nát.
Buổi sáng sớm, chúng tôi lên đường tới Đồng Đăng, ngay bên trong Ải Trung Hoa (Porte de Chine). Binh sĩ Bắc Kỳ, một số mang y phục bằng vải kaki, những người khác mặc trang phục màu xanh da trời và trắng, đứng dọc con đường, giăng ngang đường là các chuỗi cờ tam tài với các đỉnh đồi biên giới làm nền. Sau đó, những con rồng dũng mãnh xuất hiện, đầu của chúng lắc lư hoang dại trên các đôi chân nhanh nhẹn nhất.
Một bà đồng chuẩn bị cho trận đấu với ma quỷ
Một đoàn kịch Trung Hoa diễn hành với những chiếc ô thêu dày đặc chào đón chúng tôi, trong khi một bà đồng giương lên một cây đàn tam và một chùm những chiếc vòng bằng thép quấn vào nhau như để ghi dấu thời gian chiến đấu đơn độc của bà chống lại một bầy ác quỷ, hay cho sự tán dương và xoa dịu của chúng.
Người đàn bà dẫn đầu có cặp mắt hạnh nhân, khăn màu đen quấn chặt đầu với đồ trang sức lặt vặt lòe loẹt, mặc chiếc áo choàng rộng với cánh tay áo phất phới có vẽ hình vài con chim huyền thoại màu vàng.
Các đoàn hát này mang y phục diễn tuồng và cảnh trí của họ từ vùng này đến vùng khác của xứ sở, và dựng các sân khấu ngoài trời ở giữa chợ.
Nhà cung cấp thực phẩm quân đội đầu tiên tại Thất Khê được xây dựng nhờ các sắc thuế tự phát đánh vào các sòng bạc khiêm tốn nhưng phổ thông, biến mỗi thị trấn biên cương trở thành một trung tâm giải trí cho một khối hỗn tạp vùng thôn quê.
Ba quân, trò cờ bạc được ưa thích, là một hình thức phức tạp của trò chơi chọn “đầu hay đuôi”, được chơi với bốn đồng tiền, sơn trắng ở một mặt. Một khi tiếng chiếc bát lắc các đồng tiền kêu lách cách vang lên, các dân làng cả người Trung Hoa lẫn người An Nam chắc chắn đều trở thành nạn nhân.
Khi lái xe đến Thất Khê, tôi ước mình được ở trong quân đội, bởi các cử chỉ bình thường xem ra không đáp ứng đủ sự chào đón nồng nhiệt mà người ta dành cho chúng tôi.
Một chàng trai bản xứ, nói tiếng Pháp hoàn hảo, đọc bài diễn văn chào mừng sôi nổi dành cho một đoàn thám hiểm vắng mặt. Các màn thể thao được trình diễn chính xác và sôi động, và một loạt đàn ông và đàn bà bộ tộc được tập họp.
Tôi ước được đi theo các cư dân miền núi này trở về nhà băng qua các cánh đồng lúa, qua các lối mòn hẹp dọc theo các sườn núi cây cối rậm rạp nơi – nếu ta tin ở các truyền thuyết của họ – con cáo chín đuôi sẽ nuốt chửng con người và có một trinh nữ chỉ với một cái liếc nhìn cũng đủ làm chết người!
Các quân cờ “người” sống
Tại Cao Bằng, Iacovleff và Rollet dựng các giá vẽ tại cổng dinh Trú sứ (Residence) và tức thời khởi sự công việc. Tôi đi đến Nguyên Bình [?], hứa hẹn sẽ tuyển chọn những người mẫu đẹp nhất và chở họ về bằng xe của tôi trong khi tôi chụp ảnh màu dân bộ lạc, các thầy pháp, những người dệt vải, và một loạt các quân cờ địa phương là những “người” sống, thực sự là các cô gái Mán Cốc và Mán Tiền trong y phục lễ hội.
Họ xếp một hàng dài chào đón chiếc xe của tôi khi tôi đến nơi – đủ màu sắc và vẻ đẹp nguyên sơ tạo nên một thế giới tuyệt diệu cho một nhà nhiếp ảnh. Nhiều tuần trên lưng ngựa và thương thuyết có thể không đem lại một kho báu như thế này được, bởi tại các ngôi làng miền núi, phụ nữ ẩn trốn cái nhìn của người xa lạ ngoại trừ dịp Tết, hay lễ mừng Năm Mới kéo dài cả tháng, và trong suốt lễ hội đặc biệt đó, những người háo hức dự lễ lại quá lơ là việc sắm vai người mẫu. Nhưng bây giờ họ có mặt ở đây, khoảng mấy chục người, làm sáng rực ngôi chợ mây mù.
Tôi vội vàng tuyển lựa hai người mẫu (một cô là con gái tù trưởng bộ tộc) cho Iacovleff và Rollet, chọn các thanh niên đồng hành với họ, cộng với nhiều người hầu đi kèm như đòi hỏi của lễ hội và các nghi thức địa phương, và vội vã chở họ về Cao Bằng trong một chiếc xe buýt chắc chắn, bởi chiếc xe của tôi quá nhỏ.
Nói về cờ người, các cô gái nô lệ của các Lãnh chúa Ấn Độ (Moguls) đã chiếm lĩnh sự tưởng tượng của tôi từ rất lâu trước khi những người con gái bộ tộc này đứng vào vị trí của họ trên một “bàn cờ” nằm trên một mảnh ruộng được kẻ thành các ô vuông bằng các thanh tre.
Những chiếc áo choàng chỉ mặc một ngày
Bất kể vẻ tráng lệ thế kỷ thứ mười sáu của nó, kinh đô bị bỏ phế của Akbar[1] tại Ấn Độ xa xôi để lại trong tôi ký ức không sâu đậm hơn các ô vuông nhỏ được vạch trên vỉa hè sa thạch màu đỏ – bàn cờ trên đó các thiếu nữ nô lệ da ngăm đen của thời xa xưa, được lựa chọn để tiếp nhận ân huệ của hoàng triều và mặc đồ lụa mềm và mỏng đến nỗi chúng bị vứt đi sau khi mặc một ngày, di chuyển từ ô vuông này đến ô vuông kia, đáp ứng các mệnh lệnh từ các nhà quý tộc có bộ râu mượt mà.
Tôi ngờ rằng chẳng có ai ngoài những phụ nữ lạ lùng này của núi đồi Bắc Kỳ, rất sặc sỡ song lại quá khiêm nhường, có thể sắm vai trong một ván cờ mà không xúc phạm tới bóng ma vùng Đông Ấn Độ thuộc một thực tại đã tan biến. Các chuyển động của họ, lặp lại các nước đi của những người chơi cờ tại một bàn cờ thông thường, cho thấy sự trình diễn vô cùng ngoạn mục của một cuộc tranh tài, tựa như khi hai huấn luyện viên túc cầu sử dụng các vận động viên ngôi sao để phô bày các đội hình và chiến thuật được vạch ra trên một tấm bảng đen.
Tại Nguyên Bình, các tu sĩ và các thầy pháp là một vấn đề, bởi họ không nghe theo tiếng nói của giới chức thẩm quyền đang sống, mà nghe theo các mệnh lệnh huyền bí của thánh thần.
Một số trong họ bước vào buổi cầu hồn xuất thần trước khi chúng tôi đến nơi và sự quấy nhiễu sẽ bị xem là xúc phạm. Làm sao mà bất kỳ sĩ quan quân đội nào, nắm quyền kiểm soát hoàn toàn các thầy pháp về mặt vật chất, nhưng lại là một kẻ ngoại đạo, lại có thể khuyến dụ họ bước vào ánh sáng và đứng trước các ống kính chụp hình thì tôi không biết, nhưng lòng bàn tay cầm cả nắm bạc – loại pháp thuật thật đáng nể trên khắp thế giới.
Tại ngôi chợ ở Nguyên Bình, phép màu của pháp thuật đã được uốn nắn một cách khéo léo bởi ma thuật của nhà hành chính thực dân Pháp. Tinh thần của Lyautey, thiên tài thực dân, vẫn còn sống động tại vùng thượng du Bắc kỳ.
Đó là ngày họp phiên chợ lúc chúng tôi quay trở lại Thất Khê, và một đoàn hát Trung Hoa và một đoàn Việt Nam là đối thủ tranh giành sự ủng hộ của đám đông. Các khán thính giả phương đông có một tài năng tích cực trong việc tập trung vào màn diễn chính và không đếm xỉa đến những gì không liên quan. Khoác một khăn choàng màu đen để chỉ sự vô hình của mình, một người phụ trách đạo cụ có thể băng ngang sân khấu, vấp ngã hay hắt hơi mà không ảnh hưởng ngay cả đến lũ trẻ, những người đang nhìn một nam diễn viên mặc y phục tươi vui không làm gì khác hơn ngoài việc vung chiếc roi, tức thời hiểu rằng anh ta đã lên ngựa.
Ở phương tây, mọi nghệ sĩ nghiêm chỉnh đều lo sợ biến cố tình cờ mang lại một trận cười hay một nụ cười gượng gạo, khi mà nụ cười gượng là một bi kịch.
Nơi chụp ảnh
Khi tôi trèo lên chiếc sàn ọp ẹp trên đó đoàn hát Trung Hoa trình diễn, và bước lên cao trên các hòm đựng y phục trình diễn tại hậu trường sân khấu, giá ba chân để chụp ảnh được cầm bởi một bà già da nhăn nheo, ngẫu nhiên lại là người thuộc lòng nhiều vở kịch cổ điển Trung Hoa, tôi không thấy ai cười, dù người ta có thể nhìn thấy tôi rất rõ. Nhưng khi phát hiện ra đây không phải là một cuộc trình diễn thường lệ mà là một buổi tập dượt để chụp hình, khán giả tụ lại càng đông hơn và bục diễn bị xen lấn đến nỗi chúng tôi rút về khoảng sân dành riêng cho việc chụp ảnh.
Các nghệ sĩ An Nam, trong y phục đi đường, trông đơn sơ và nhếch nhác đến nỗi xem ra không đáng làm phiền để yêu cầu họ mặc trang phục và tô điểm mặt mày. Còn cả một con đường dài và một ngày bận rộn trước mặt. Nhưng lại đáng giá khi nhìn thấy “một con chim trong bàn tay” trên sân khấu trong trang phục bằng lông chim đẹp đẽ của anh ta.
Khi họ xuất hiện, sự kiên trì của tôi đã được tưởng thưởng. Một thiếu phụ vô hồn ngày xưa đã trở thành một công chúa thật sự, và đôi mắt lúc nãy còn thiếu ánh sáng giờ đã lóe lên một nụ cười từ bên dưới vương miện huy hoàng bằng thủy tinh và trang kim, trên đỉnh gắn hai sợi lông công thanh nhã – “những sợi lông đẹp đẽ” đóng giữ vai trò cổ truyền của chúng.
Trang phục của đàn ông thì tươi mới và sặc sỡ. Một hoàng tử mặc hàng lụa bên dưới một tấm trang trí hình tròn trông giống như một cái thuẫn, có đường viền bằng lông thú trắng tinh. Thần tượng tuyệt diệu tại ngôi chợ chính là kẻ ăn mặc đơn sơ đến nhếch nhác lúc nãy hay sao?
Ngôi nhà của các bà cốt cầu hồn[2]
Buổi chiều hôm đó, chúng tôi leo lên một cầu thang lung lay, vượt qua một cổng bằng tre ọp ẹp, tiến vào “ngôi nhà của các bà cốt cầu hồn”, và chịu tiếp nhận sự thông công với các thế lực ác hiểm của bóng tối.
Phép lên đồng và tôn giáo kết hợp với nhau một cách kỳ lạ, và cả hai đều giữ một phẩm cách mà các nhà hành chính Pháp thận trọng không can thiệp vào. Chúng tôi được dặn trước rằng chúng tôi không được làm xáo trộn buổi lễ và đừng mong người ta sẽ công khai thừa nhận sự hiện diện của chúng tôi. Không ai trong số bốn bà đồng[3] tỏ lộ bất kỳ dấu hiệu nào về việc họ biết rằng chúng tôi ở đó.
Mặc áo lụa có màu sắc và chất liệu nhẹ nhàng, họ ngồi xếp bằng tròn trên tấm thảm sạch sẽ, đôi bàn chân trần đôi khi ngọ nguậy các ngón theo một nhịp điệu lạ lùng, kỳ dị.
Ba người phụ nữ trẻ tuổi hơn buộc một dải vải trắng cạnh khăn quấn màu đen quanh đầu trần và chơi đàn tam[4] có cần đàn dài, kiểu đàn ghi-ta ba dây có mặt đàn được bịt bằng da con trăn từ khu rừng bên cạnh. Người đàn bà thứ tư ngồi gần một bàn thờ sơn mài màu đỏ, những chiếc bát sứ tua tủa các nén hương, xác định trường canh bằng việc giơ lên và hạ xuống một chùm vòng sáng bóng kêu leng keng bên trên một chiếc đệm vuông nhỏ được phủ lụa màu son sơn mài.
Thỉnh thoảng bà ta ngừng nhịp đập khác thường của xâu vòng sáng chói, nhổ một ngụm nước trầu màu đỏ nâu vào một ống nhổ nhỏ được đánh bóng kỹ càng, và súc chiếc miệng sâu thẳm của bà bằng nước trà, những chiếc răng bị nhuộm đen gần như không trông thấy.
Nếu không vì sự long trọng của các bà đồng, sự lãnh đạm của họ đối với hiện diện của chúng tôi, và bầu không khí hoàn hảo cho việc thực hiện một vụ cầu hồn bí mật với các thần linh tuy không nhìn thấy được nhưng lại hữu hình hơn cả chúng tôi, việc nhai trầu hẳn sẽ trở nên lạc lõng. Thay vì thế, nó càng làm gia tăng ấn tượng rằng chúng tôi đang quan sát toàn thể buổi lễ huyền bí từ một lỗ nhìn xuyên qua cánh cửa hay một quả cầu bằng thạch anh dùng trong bói toán.
Các đờn tam tiếp tục bật lên các âm thanh ngắn, một chuỗi vòng đan xen phát ra các nốt nhạc quái đản với một đơn điệu sống động, và các bàn tay với ngón tay dài, mảnh khảnh, vuốt lên xuống cổ phím thon gọn của những chiếc đàn ghi ta trông giống như cái muôi múc canh. Cảm giác không thể thâm nhập vào sự huyền bí đó, chúng tôi nhẹ nhàng rút lui.
Người ta có thể du hành phương Đông trong nhiều năm nhưng không bao giờ bước vào “ngôi nhà của các bà cốt”. Vào buổi tối, trong ánh nến chập chờn và khói hương, nó hẳn là một trải nghiệm còn ấn tượng hơn nữa. Nhưng chúng tôi có hẹn uống trà ở Lạng Sơn với viên Trú sứ và bà Klein, và đến tối, đèn pha ô tô của chúng tôi đã phải quét ngang vùng đồng bằng thấp gần Hà Nội.
Hà Nội, một thủ đô của sự tương phản
Giống như các sự kết hợp khác ở phương Đông giữa thành phố Á Đông với tiền đồn Âu Châu, Hà Nội, thủ đô của Đông Dương thuộc Pháp, chứa đựng sự tương phản sâu sắc. Một nét tương phản hiển nhiên là các đường phố bản xứ, nơi người thợ bạc và thợ đồ gốm, thợ chạm khắc ngà voi, nhà buôn hàng lụa, người bào chế dược liệu và người làm đồ sơn mài có tên ngành nghề được đặt cho đường phố chính nơi cửa hiệu của họ tọa lạc, trong khi bước quá hồ nước giữa thành phố, là một buổi khiêu vũ uống trà chơi nhạc jazz của Mỹ. Nhưng thành phố Á Đông nào từ Harbin đến Bombay mà lại không có sự tương phản giữa các văn hóa này?
Hà Nội có một cảnh tượng tươi sáng là “các cô gái” bán hoa đội nón quai thao ngồi xổm dưới một cây đa tại một góc hồ, một ý tưởng sung sướng của viên Toàn quyền yêu nghệ thuật, Pasquier, đến nỗi các cô gái được gọi là “Pasquierettes”, nhưng hồi ức sống động nhất của tôi lại là về một điều tầm thường. Đó là khí hậu tự nhiên và mát lạnh của Hà Nội – chúng tôi đã khao khát nhớ về sự mát mẻ của nó khi tới dòng sông Hương bốc hơi nóng hai ngày sau đó! – và tôi đã bước vào một trong những tiệm sách lớn của thủ đô, chất đầy sách một cách tráng lệ.
Tôi đã muốn mua một xấp phong bì và nhận thấy rằng không có hồ ở nắp phong bì. Thật là sơ suất! Tôi chọn một xấp khác. Vẫn không có hồ. Hà Nội có những tháng dài của hơi nóng ẩm thấp đến nỗi các nhân viên hành chính phải có một lọ hồ để dán các lá thư, nếu nắp có sẵn hồ thì các phong bì sẽ tự dán lại mất.
Chúng tôi đã tham dự lễ khai trương bảo tàng viện mới của Trường Viễn Đông Bác Cổ, nơi các nhà bác học đã cứu vớt, bảo vệ và giải thích những điều huyền bí của vùng đất này, nơi nối kết các chủng tộc, tôn giáo và văn minh Ấn Độ, Mã Lai và Trung Hoa.
Một nhân viên khác của tạp chí National Geographic đã mô tả và chụp ảnh Con Đường Cái Quan trên đó chúng tôi đi bằng xe hơi để đến Huế, và miêu tả của ông về “các gánh đồ nặng đong đưa trên các đầu đòn gánh”, và “những chiếc xe cút kít kêu rít lên, được đẩy bởi người dân Bắc Kỳ cần cù”, là một bức tranh sống động về tuyến đường chính yếu đầy người lao động vất vả đó”. Tại Huế, những người bạn của ông trở thành bạn của tôi.
Một tối, chúng tôi là các khách mời của một quả phụ trong hoàng tộc, được xem các thiếu nữ vũ công trẻ tuổi trình diễn và các công chúa An Nam yểu điệu vuốt đàn tranh 16 dây với đôi bàn tay thanh nhã khi họ ngồi xuống giữa các làn sóng lụa bản xứ có màu sắc tinh tế và những chiếc quần xếp nếp thẳng tắp màu kem trắng.
Tục nhai trầu và nhuộm đen hàm răng của họ bổ túc một đường nét lạc lõng vào vẻ đẹp điệu đà của các thiếu nữ An Nam, nhưng một vài cô trong số họ đã giữ răng trắng như ngọc, và kế đó, nụ cười An Nam bí ẩn, không còn các vết nhuộm để lại bởi các hạt cau quấn trong lá trầu và được quết vôi, mang một nét quyến rũ mới đối với cặp mắt Tây phương.
Hoàng tử Bửu Liêm, đeo nhiều huy chương và thẻ ngà voi của quan chức hay ba ngai[6], chào đón chúng tôi đến thăm nhà ông, nơi không khí trở nên phấn khởi bởi vẻ đẹp của Công chúa trẻ tuổi Kiều Nghiêu, con gái ông. Võ Chuẩn, một ông quan của Bộ Học, mặc áo dài màu tím và đội mũ cánh chuồn thể hiện chức vụ trong khi Iacovleff vẽ chân dung ông và những đứa con nhỏ của ông, trông giống như búp bê mặc áo lụa, đứng ngắm đàn cá vàng phóng mình giữa các cuống lá sen trong một hồ nước tí hon.
Cuộc sống trên thuyền trên sông Hương
Một buổi chiều, khi ánh nắng và hơi nóng đã nguội bớt, tôi lái xe bên cạnh một kinh đào rợp bóng mát và chờ đợi tại một khúc quanh cho đến khi một chiếc thuyền tam bản giống như chiếc gondola[7] được hai tay chèo đội nón cu-li đẩy tới, bổ sung nét chấm phá cần thiết của cuộc sống và chuyển động thư thái cho vùng nước lặng thanh bình này.
Các loại cây thủy sinh nổi trên các luồng chảy lừ đừ, một túp lều tranh phản chiếu trên dòng nước và các cây tre tựa lông chim in hình lên bầu trời chói lọi. Chỉ có tiếng vỗ nhẹ nhàng của mái chèo làm nổi bật sự yên lặng. Sự ồn ào náo nhiệt của các đường phố trong thành phố vẫn còn tắt lịm khi tôi hồi tưởng đến bức tranh thơ mộng của sinh hoạt trên thuyền gần sông Hương.
Huế, giống như Bắc Kinh, có một cấm thành và một bảo tàng mỹ thuật được đặt tại một tòa nhà trưng bày của cung điện. Bảo tàng Khải Định, giống như nhiều bảo tàng viện khác, đầy rẫy những đồ vật quý giá. Nhưng chúng phù hợp với các đại sảnh lộng lẫy của cung điện, và được cung cấp cho khung cảnh đặc biệt đó, nơi, theo những người Pháp sành sỏi, tạo nên hay hủy hoại một chiếc áo, một loại rượu nho, một cụm từ, hay một tư tưởng. Được cất giữ như vậy, một đồ vật của bảo tàng viện An Nam không phải là vật trang điểm vô nghĩa, mà là tinh túy của nghệ thuật bản xứ bên ngoài chính các bức tường của nó.
Chính thủ phủ trên dòng sông Hương này là nơi Bảo Đại đã quay về từ Phương Tây. Cải cách tư pháp, lập ra Bộ Quốc gia Giáo đục, thừa nhận một Viện Dân biểu, và thiết lập chức vụ Chủ tịch Hội đồng Thượng thư – tất cả đều được hứa hẹn bởi vị Thiên tử trẻ tuổi này.
Mặc dù khoác áo hoàng bào, vai trò khả hữu duy nhất của Bảo Đại là vai trò đầy tớ phục vụ các thần dân chân đất của ông. Một trong những hành động đầu tiên của ông là kiểm tra một trường dạy nghề và một trường nữ sinh – việc này diễn ra tại một kinh đô nổi danh từ lâu là một “trại cho các học giả”, cung cấp giáo dục văn chương thuần túy chỉ cho nam giới. Gương mẫu của ông đáng ghi nhận, vì mặc dù người An Nam không mặc áo cổ cồn, nhiều người vẫn ưa thích các công việc của giới thư lại.
Đông Dương chi tiêu một tỷ lệ lớn đáng kinh ngạc cho ngân sách giáo dục của nó. Tôn giáo và triết lý phương Đông, được diễn tả bằng tiếng Hán, tiếng Phạn (Sanskrit) và tiếng Pali, được kết hợp với khoa học Tây phương, nhưng mọi nỗ lực được thực hiện không phải để làm bật rễ người dân ra khỏi các tập quán của đời sống và tư tưởng đã được thử nghiệm qua thời gian của họ.■
[1] Vị vua thứ ba dòng Mogul (gốc Mông Cổ) tại Ấn Độ, trị vì từ 1542-1605 (ND).
[2] Vì tác giả chỉ chứng kiến và chụp ảnh ban nhạc chứ không theo dõi một buổi hầu đồng thực sự nên đã gọi các nhạc công của ban hát chầu văn là các bà đồng (hay bà cốt), như được ghi lại trong tiểu đề và đoạn văn này cũng như trong chú thích kèm theo ảnh chụp ban hát này (ND).
[3] Thực ra là các nhạc công của ban hát chầu văn, vừa đánh đàn, gõ nhịp, và hát các bài lễ nhạc đi liền với nghi thức lên đồng (ND).
[4] Nguyên bản ghi là don tam (ND).
[5] Các nhạc công của một ban hát chầu văn (ND).
[6] Tiếng Việt trong nguyên bản, không rõ nghĩa (ND).
[7] Thuyền đáy bằng dùng để đi trên sông tại thành phố Venice, Italy (ND).