Robert Moore
Ngô Bắc dịch
Đây là bài viết đầu tiên về Việt Nam và Đông Dương trên tạp chí lừng danh thế giới, National Geographic Magazine, tháng Tám năm 1931, chứa đựng nhiều ảnh chụp rất quý hiếm, trong đó có 33 hình đen trắng và 28 ảnh chụp màu tự nhiên. Đó là những tấm ảnh màu tự nhiên đầu tiên về Việt Nam xuất hiện trên một tạp chí bằng Anh ngữ ở phương Tây. Tác giả bài viết, W. Robert Moore, cũng là người chụp ảnh.
————
Xem lại Kỳ 1
Thực dân Pháp thoải mái như ở quê nhà tại thành phố Sài Gòn hiện đại
Riêng xứ Nam Kỳ trồng được hơn 2 triệu tấn gạo mỗi năm, và Chợ Lớn, phố người Tàu ngay ngoại vi Sài Gòn, chủ yếu chuyên việc xay lúa.
Sài Gòn là một thành phố tiến bộ với nhiều cửa hàng hiện đại, đẹp đẽ và các công thự kiêu kỳ. Ban ngày, đường phố và bến tàu nhộn nhịp với hoạt động của muôn hình vạn trạng các loại phương tiện giao thông – xe có gắn động cơ, xe vận tải, xe điện, xe kéo tay, xe đạp, xe bò kêu kẽo kẹt và các phu cu-li như những con vật khuân vác. Tuy nhiên, nhiều nơi buôn bán đóng cửa trong những giờ trưa nóng bức và mở cửa lại từ 4 giờ chiều đến 7 giờ tối sau khi sự mệt mỏi giành được một chiến thắng nhỏ nhoi.
Buổi tối, các bàn cà phê được đẩy ra trên lối đi bộ, và từ 6 giờ chiều đến giờ ăn tối, các thực dân Pháp tụ tập để nhấm nháp những ly rượu khai vị và thoải mái trò chuyện như thể họ đang ở trên quê hương mình.
Sau bữa tối, vào mùa diễn kịch, họ có thể tham dự những buổi trình diễn tuyệt hảo tại nhà hát thành phố tráng lệ hoặc đi xem chiếu bóng.
Người Pháp ở Sài Gòn chẳng thiếu thốn thứ gì mặc dù họ đang sống ở thuộc địa.
Các văn phòng của Thống đốc Nam Kỳ tọa lạc trong thành phố, và Toàn quyền Đông Dương trú ngụ sáu tháng tại Sài Gòn và sáu tháng tại Hà Nội.

Mặc dù trung tâm hành chính của Đông Dương thuộc Pháp đã được chuyển từ Sài Gòn ra Hà Nội vào năm 1902, viên Toàn quyền vẫn trú ngụ ở đây vài tháng mỗi năm.
Một buổi sáng, trong khi một số người dân Sài Gòn còn đang uống những ly cà phê nhỏ giọt và nhai những ổ bánh mì Pháp cứng giòn không phết bơ, còn những người khác đang chuẩn bị cho chuyến đi của Vua và Hoàng hậu nước Xiêm La rời khỏi Sài Gòn sau cuộc viếng thăm, chúng tôi cũng rời Sài Gòn để đi Phan Thiết và trạm nghỉ mát đồi núi Đà Lạt.
Đi theo Con đường Cái Quan trải đá mịn theo hướng đông và hướng bắc từ thành phố, chúng tôi sớm băng qua các đồn điền cao su rộng lớn xen với những khóm dừa và cây bông gòn rải rác.
Nhiều đồn điền đã sản xuất nhựa mủ trong vài năm qua; các đồn điền khác sẽ sớm đạt tới giai đoạn trích mủ. Vài đồn điền mới được khai khẩn gần đây, và tại nhiều nơi khác, các vùng đất mới đang được cắt ra khỏi rừng rậm và chuẩn bị cho việc trồng trọt trong tương lai.
Cao su được chở đến Singapore và Pháp với khối lượng gần như nhau, trong khi một lượng nhỏ được chuyển tới Nhật Bản.
Sau khi men theo bìa các đồn điền, các cánh đồng lúa khô hạn, các khu vực rừng rậm và đất chưa được khai phá, chúng tôi tiến dần đến xã Phan Thiết, được xây dựng trên những đụn cát lộng gió dọc theo bờ biển.

Nghề cá phát triển của Phan Thiết cung cấp nguyên liệu cho một thứ nước chấm nặng mùi mà người dân bản địa Đông Dương xem là một mỹ vị đậm đà để ăn với cơm.
Phan Thiết quảng cáo về ngành công nghiệp của mình và phát triển nó một cách mạnh mẽ. Ngành kinh doanh của xã là đánh cá. Xã này nổi tiếng với nghề chế biến nước mắm có mùi khắm được chuyên chở tới khắp nơi tại Đông Dương như một thứ gia vị cho thực đơn kiểu gạo-và-cà ri của người dân. Nó là một sản phẩm nặng mùi, nhưng nếu ta có thể chịu được mùi đủ lâu để thăm viếng các thuyền đánh cá dọc theo bến cảng, ta có thể nhìn thấy nó được đóng vào các hũ nhỏ và chất lên tàu chở đi. Những con thuyền cũng rất thú vị bởi trên mũi thuyền có đặt các bàn thờ thần linh được sơn màu sặc sỡ, trên đó bày các đồ cúng gồm hương, hoa và nến.

Với các lễ vật gồm hoa, nến và hương tại mũi thuyền được sơn vẽ hào nhoáng, các ngư phủ ra biển với niềm tin rằng họ sẽ trở về với một mẻ lưới đầy.
Người Thượng ở Đông Dương
Từ Phan Thiết, chúng tôi tách ra khỏi Đường Thuộc địa để tới Đà Lạt và thăm dân bộ lạc người Thượng trên cao nguyên Lang Biang.
Qua một loạt khúc cua tay áo ngoằn ngoèo, con lộ bò lên cao gần một dặm so với đồng bằng, xuyên qua hàng thông thơm ngát thẳng tắp và băng ngang những thác nước đẹp đẽ.
Dọc theo con đường, ngay khi lên tới miền cao, ta có thể nhìn thấy những người Thượng lê bước bên cạnh đường với những chiếc gùi nặng nề đeo trên vai hoặc với những bó cỏ tranh hay bó củi lớn trên lưng và đầu của họ.

Cả đàn ông lẫn đàn bà của bộ lạc đều quen với việc gùi nặng sau lưng. Họ đi một quãng rồi lại tựa gùi trên chiếc gậy hình chữ T để nghỉ một lát và sau đó lại rảo bước tiếp.
Đàn ông không mặc gì từ thắt lưng trở lên, có lẽ chỉ ngoại trừ các chuỗi hạt ở cổ, còn bên dưới mang rất ít y phục. Phụ nữ chỉ mặc váy kẻ sọc ngang đầu gối, đeo nhiều chuỗi hạt quanh cổ, vòng đeo tay và các cuộn dây bằng đồng giữa mắt cá chân và đầu gối. Bởi cao độ của cao nguyên, vào những buổi sáng lạnh lẽo, đàn ông choàng các tấm chăn quanh vai và phụ nữ thường mặc áo khoác ngoài.

Khoảng 200.000 dân bộ lạc này cư trú tại các vùng đồi núi của miền nam Trung Kỳ. Họ là một chủng tộc khỏe mạnh với những tay thợ săn tuyệt hảo. Người đàn ông bên trái mang theo những chiếc gùi thông dụng để đựng mọi thứ.
Để tô điểm thêm cho sắc đẹp của họ, nhiều phụ nữ dân tộc đã xỏ lỗ tai và đeo vào đó các cuộn mây hay các đĩa bằng gỗ có kích thước lớn dần, cho đến khi dái tai kéo căng tới đường kính từ ba đến năm inch (khoảng 8 – 13 cm); sau đó, khi tới tuổi trưởng thành, họ lấy các đĩa gỗ ra và treo những chiếc vòng kim loại vào các dái tai lủng lẳng, có thể dài tới 30 cm.
Khoảng 200.000 người Thượng sinh sống ở vùng rừng núi này và khoảng nửa triệu sống trên khắp Đông Dương. Những ai không thường trực di chuyển từ nơi này sang nơi khác, sinh sống giữa cây cối hay những nơi trú náu tạm thời trong rừng rậm, thì sẽ có các túp nhà tranh trên đỉnh đồi.
Từ “người Thượng” dùng để chỉ tất cả dân miền núi tại Đông Dương, bất luận họ là những người cởi trần sống quanh Đà Lạt hay các dân tộc đội mũ cao và quấn khăn của vùng thượng Lào, những người trông giống như bức phóng họa bản đồ của chúng ta.
Những người dân miền núi này được chia thành vài nhóm và phân nhánh ngữ học chính, tổng cộng vào khoảng 30 ngôn ngữ hay thổ ngữ.
Nhà ở của người Thượng quanh Đà Lạt là những ngôi nhà sàn dài bằng tre với một lỗ hở duy nhất, một cửa chính thấp nằm giữa một bên hông. Các căn buồng hẹp, đôi khi dài đến 60 mét, có ít đồ đạc nhưng lồ lộ nhiều vại rượu cần lớn kê thành hàng dọc theo các bức vách. Thức ăn được nấu trên bếp lửa trong những căn phòng phủ đầy bồ hóng xám xịt, khói bếp hoạt động như một chất diệt trừ muỗi.
Những cây nêu cao vút trang trí bằng các dải cờ bằng tre cùng với những chiếc sừng và móng trâu được dựng bên ngoài các ngôi nhà.

Các ngôi nhà dài, mái thấp thì không có cửa sổ và chỉ có một cửa ra vào duy nhất, qua đó người ta phải cúi đầu xuống để vào nhà. Một cây nêu cao được trang trí bằng các dải lá tre dựng ở phía bên phải.
Những người đàn bà thống trị phả hệ gia tộc
Giống với dân tộc Menangkabau ở đảo Sumatra, chế độ mẫu hệ thịnh hành trong sắc dân Radé, Khasi và một số nhóm người Thượng khác.
Phụ nữ của các bộ tộc này là những người chủ gia đình. Tài sản thuộc quyền quyết định của họ, họ chăm lo cho gia đình, đi chợ mua đồ và giữ tiền. Đàn ông tỏ ra kính trọng họ, và nếu muốn uống rượu cần hay muốn mua sắm, thì phải xin phép vợ. Rất may là các bà vợ đều quảng đại. Nếu họ trở nên quá chuyên chế, người chồng có thể vùng lên.
Tại các buổi tiệc tế lễ, phụ nữ uống rượu trước tiên, tiếp đó lần lượt là các con gái và cháu gái, và sau cùng, đàn ông và con cháu trai mới được phép uống.
Đối với các dân tộc Thượng theo mẫu hệ, mọi năm đều là năm nhuận[1], bởi phụ nữ luôn là người cầu hôn. Nếu một người con gái 17 hay 18 tuổi gặp được một người đàn ông mà cô ưng ý, cô sẽ xin phép gia đình đi hỏi cưới anh ta. Nếu được gia đình đồng ý, cô sẽ trao cho anh ta quà tặng gồm một miếng trầu và hai chiếc bánh, với sự tháp tùng của một chứng nhân. Nếu anh ta chấp nhận lời cầu hôn của cô gái, anh ta sẽ nếm thử món quà và cuộc hứa hôn khi đó được hoàn thành.
Khi một cuộc hôn nhân diễn ra tại bộ lạc Radé, chàng trai đến sống với gia đình vợ và cha mẹ anh ta sẽ nhận được một số tiền để bù đắp cho việc mất đi một thành viên quan trọng trong gia đình họ. Với bộ lạc Khasi, chàng trai sống tại nhà của mẹ mình và hàng ngày tới thăm gia đình vợ sau khi công việc đồng áng trong ngày xong xuôi.
Trong các bộ lạc duy trì chế độ phụ hệ, người đàn ông có nhiệm vụ “tán tỉnh”, cung cấp đồ sính lễ và nộp một số tiền cưới cho cha mẹ vợ.
Người Thượng nói chung theo tục đơn hôn, nhưng trường hợp nhiều vợ và nhiều chồng không phải là không được biết tới.
Một số người Thượng tránh hôn nhân họ gần, bởi họ quan niệm việc đó sẽ khiến thần linh giận dữ, mà hậu quả là dịch bệnh, hạn hán, mất mùa và nhiều điều bất lợi khác.
Các nữ giáo sĩ bộ lạc cử hành các buỗi lễ tế thổ thần cứ bảy năm một lần, tiếp nhận đồ cúng, cầu khấn và dâng lễ vật để chuộc tội cho các lỗi lầm của làng.
Các buổi lễ được cử hành để cúng nhiều thần thánh khác nhau. Những bàn thờ tí hon được đặt bên cạnh các lối đi dẫn về làng của họ. Chúng ta có thể thấy các vị thần thống trị đời sống của người Thượng.
[1] Tác giả ngầm so sánh với truyền thống Ireland, theo đó, một người đàn ông nhận được lời cầu hôn vào năm nhuận sẽ phải chấp nhận lời yêu cầu này [ND].

Chỉ cần những manh áo nhỏ và sinh sống trong các ngôi nhà tre mái tranh, người Thượng kiếm sống bằng việc săn bắn và làm rẫy trên các ngọn đồi của miền nam Trung Kỳ.
Trên khắp cao nguyên Lang Biang lang thang vô số những hổ, báo, nai, trâu rừng và các loại thú hoang khác. Nhiều nhà săn bắn đã tận dụng khu vực trù phú này. Thực vậy, trên khắp Đông Dương, đời sống hoang dã thật dồi dào.
Dân bản xứ, qua trải nghiệm buồn thảm, hiểu được mối đe dọa của hổ. Họ thì thầm về nó với các tước hiệu tôn kính, và ở không ít nơi, các ngôi miếu đã được dựng lên để thờ Thần Hổ.
Nhờ khí hậu ôn hòa ở cao độ cả dặm Anh, Đà Lạt thu hút được nhiều người đi chạy trốn cái nóng của đồng bằng. Người Pháp đã biến cải nó thành một khu nghỉ dưỡng lành mạnh thú vị với những ngôi nhà quyến rũ, các khách sạn tốt và các khu vườn đầy hoa. Nơi đây khác hẳn với các ngôi làng kề cận của người Thượng.
Nhiều sườn đồi quanh Đà Lạt đã được khai quang và làm thành bậc thang cho các vườn trồng rau và các đồn điền cà phê. Gần như tất cả cà phê phục vụ trong bữa ăn của người Đông Dương đều được trồng tại địa phương, ở các vùng đồi núi.
Di tích nền văn minh Chàm chỉ còn lại những ngọn tháp đổ nát
Từ cao nguyên mát lạnh, chúng tôi lượn đường trôn ốc đổ xuống con đường dốc ngoằn ngoèo đến Tháp Chàm (Tourcham), trên các đồng bằng phồng cháy dưới ánh nắng mặt trời, để tiếp tục hành trình đến Đà Nẵng (Tourane), Huế và xa hơn nữa.
Trên một ngọn đồi khô cằn, nứt nẻ phủ đầy cây mâm xôi, không xa Tháp Chàm, có một ngọn tháp được bảo tồn rất tốt của người Chàm in hình dáng màu đỏ gạch của nó lên nền trời và tên của nó được đặt tên cho ngôi làng.

Nền văn minh Chàm Mã Lai-Đa Đảo hay Champa, phát triển tại miền nam Trung Kỳ giữa các thế kỷ thứ 2 và thứ 17, đã để lại nhiều tượng đài tôn giáo. Đền thờ Siva Po Klaung-garai này ở Tháp Chàm (Tourcham) đã được dựng lên từ hơn 600 năm trước.
Dọc theo bờ biển tới Đà Nẵng có nhiều tháp bằng gạch, giờ đây ở trong tình trạng hoang phế đổ nát, là những ngọn tháp đã được dựng lên khi nền văn minh Chàm ở trên đỉnh cao quyền lực của nó.
Người Chàm, với dòng máu Mã Lai chảy trong huyết quản hòa quyện với nền văn hóa Hindu, đã phát triển từ các thế kỷ đầu tiên sau Công Nguyên cho đến khi bị chinh phục hoàn toàn vào khoảng thế kỷ thứ 17 bởi áp lực nam tiến ngày càng gia tăng của người An Nam. Cũng có thời người Chàm là đối thủ đáng sợ của người Khmer.
Ngày nay chỉ còn ít nhóm người Chàm biệt lập sinh sống tại miền nam Trung Kỳ và miền hạ Campuchia, và khó có thể phân biệt được họ với các cư dân khác.
Tháp Chàm là nhà ga đầu mối nơi đường sắt từ Đà Lạt nối với đường ray chính của miền nam Đông Dương, chạy từ Nha Trang đến Sài Gòn và Mỹ Tho. Một phần đáng kể của chặng đường leo dốc tới Đà Lạt là đường ray răng cưa, các dặm cuối cùng của nó hiện đang được xây dựng.
Người Pháp dự định hoàn thành tuyến đường ray dài 330 dặm nối Nha Trang và Đà Nẵng trong một khoảng thời gian ngắn. Khi đó các hệ thống bắc và nam sẽ được nối liền, sao cho sẽ có một dịch vụ thống nhất từ Mỹ Tho và Sài Gòn chạy dọc bờ biển, qua Hà Nội, đến Na Cham (Na Sầm, Lạng Sơn) tại biên giới Trung Hoa và đến Vân Nam, thuộc Trung Hoa. Hiện tại, một chiếc xe buýt bưu điện của chính phủ hoạt động trên khoảng trống này của đường ray xe lửa.
Chúng tôi tăng tốc độ trên con đường ven biển, đi qua những đồng lúa, những khóm dừa và các tháp Chàm.
Ngay bên ngoài Nha Trang, một chiếc cầu dài vắt ngang qua cửa vịnh dưới chân một ngọn đồi mà trên đỉnh có một tháp Chàm khác. Từ cao điểm này, người ta có được một cái nhìn toàn cảnh Vịnh Nha Trang với rất nhiều thuyền đánh cá bập bềnh trên mặt nước xao động. Xa hơn đó một chút, các ngọn núi của rặng An Nam (Trường Sơn) nối dài ra biển và tạo thành Mũi Varella (Mũi Diều) xinh đẹp.
Khi chiếc xe leo lên đoạn đường ngoằn ngoèo cao hơn bờ biển, chúng tôi đã được ngắm nhìn quang cảnh hùng vĩ với các khúc lõm vĩ đại của biển, nơi những ngọn đồi mặc áo xanh đột nhiên mọc lên từ mặt nước xanh thẫm.
Trên một trong các đỉnh cao nhất của mũi đất hiện ra một tảng đá khổng lồ, trông giống như một tháp Chàm vĩ đại, có thể được nhìn thấy cách xa hàng dặm từ mọi hướng. Bởi vị trí độc đáo này, đã có nhiều truyền thuyết về nó. Nhìn từ một góc cạnh nào đó, nó có hình dáng như một người mẹ đang bồng con trong vòng tay. Người Thượng sẽ nói cho bạn hay rằng đây là vợ của một vị thần vĩ đại, người đã biến bạn đời của mình thành hòn đá bởi bà ta đã lừa dối ông. Do đó, bà đã vĩnh viễn đứng trên núi cao như một lời cảnh tỉnh cho các phụ nữ khác. Huyền thoại này đã được các nhà vẽ bản đồ người Pháp lưu giữ, họ đặt tên cho phần này của rặng núi là “Núi Mẹ và Con”.
Trên đường tới Đà Nẵng, chúng tôi đã dừng chân nghỉ đêm tại Tuy Hòa và một lần nữa tại Quảng Ngãi, trong những căn nhà thấp (bungalow) đẹp đẽ mà chính phủ Pháp đã gìn giữ thật hoàn hảo ở đây và tại nhiều thị trấn nhỏ khác ở Đông Dương.
Vừa vượt quá làng chài Sông Cầu với những khóm dừa nằm rải rác, bờ biển bằng phẳng được đắp đê thành các ruộng muối rộng lớn để nước biển bốc hơi. Gần Qui Nhơn, nhiều tượng đài Chàm trên các ngọn đồi bao quanh mọc lên như những vọng gác trên các đồng bằng được canh tác tốt, được điểm xuyết bằng những ngôi làng An Nam đông đúc xây bằng các khung tre, tường trát bùn và mái cỏ tranh.

Một nhóm dân Campuchia đang trở về nhà sau lễ hội bằng một phương tiện lâu đời. Tuy nhiên, với sự gia tăng đáng ngạc nhiên các đường lộ tốt tại Đông Dương thuộc Pháp, nhiều người giờ đây đi lại bằng xe buýt.
Những chiếc xe hơi cắt đuôi ma quỷ đeo bám khách bộ hành
“Đường lộ thì tuyệt hảo, nhưng ngổn ngang động vật và con người”, một cuốn sách mỏng của Pháp nhận xét chính xác về vùng này của An Nam, bởi tất cả những người An Nam, rồi chó và trâu, luôn luôn di chuyển. Mọi người với đòn gánh vắt ngang vai đang đi ra chợ hoặc ra đồng.
Không có cảnh xin đi nhờ xe tại An Nam, bởi vì mọi người đều dạt về phía lề đường khi có một chiếc xe đang tiến tới — đúng thế, tất cả mọi người. Đôi khi một người già An Nam mê tín tin rằng một hồn ma ác độc đang đeo bám mình và nếu ông ta chạy ngang qua lối đi của chiếc xe hơi vào phút chót, con ma sẽ bị xe đâm và khi đó, ông ta sẽ được giải thoát khỏi kẻ ám hại. Người ta dễ bị đoán sai tốc độ của một cỗ máy đang phóng tới; do đó có nguy cơ chiếc xe không chỉ đâm vào con ma, mà còn đâm cả vào đuôi áo đang tung bay.
Trong nhóm người An Nam đi chợ, không có màu sắc như người ta nhìn thấy tại Campuchia. Gần như tất cả mọi người đều mặc áo dài đen, quần trắng hoặc đen, đội trên đầu những chiếc nón rộng vành hình nấm làm bằng lá cọ, che mưa nắng đều tốt. Tại các ngôi chợ, chúng khiến ta liên tưởng đến một mái che bằng tranh chắc chắn cho những người đang tụ họp để mua bán, trao đổi.


Đà Nẵng là hải cảng chính yếu của trung phần Trung Kỳ. Năm 1858, chính tại địa điểm trọng yếu này, người Pháp đã nổ súng khi nạn đàn áp các tín đồ Thiên Chúa Giáo xảy ra ở An Nam. Đà Nẵng là một thành phố tự quản, bởi nó là một trong các khu nhượng địa mà Vua Gia Long [sic] giao cho Pháp.
Cách phía nam vài dặm là thành phố Faifoo (Hội An) của người Hoa, nơi hoạt động chuyên chở bằng tàu khá nhộn nhịp. Đã có thời một khu định cư Nhật Bản hiện hữu nơi đây.

Một vài xu lẻ đã dỗ được mấy đứa trẻ Hội An này vượt qua nỗi sợ máy chụp hình và chịu đứng chụp trước bức bình phong này tại lối vào chùa.
Các du khách cũng chú ý đến Ngũ Hành Sơn (Marble Mountains) cách Đà Nẵng ít dặm, nơi các nhà sư An Nam đã biến cải một số hang động thành tu viện.

Các hang động tại Ngũ Hành Sơn, gần Đà Nẵng, giờ đây là thánh địa cho các cuộc hành hương Phật Giáo, đã từng được dùng làm các đền thờ Ấn Độ Giáo trong thời đại người Chàm. Cấu trúc giống như ngôi chùa bên tay trái cao khoảng 10 bộ Anh.
Từ Đà Nẵng, trạm dừng chân kế tiếp của chúng tôi là Huế, trung tâm sinh hoạt của An Nam. Giữa hai thành phố này, các ngọn núi đâm ra biển tạo thành Đèo Hải Vân (Col des Nuages, Pass of the Clouds), thành quả tuyệt đỉnh của thiên nhiên bên bờ biển Trung Kỳ. Tại đỉnh đèo có một đồn An Nam cũ, từ đó người ta có thể nhìn lại đường cong vĩ đại của Vịnh Đà Nẵng, trong khi nhìn về hướng kia là bờ biển dài và núi đồi dốc đứng. Ở một cao độ thấp hơn nhiều so với con đường màu vàng bao quanh các ngọn đồi phủ lá xanh, người ta có thể nhìn thấy đường ray xuyên vào đỉnh đèo qua một vài đường hầm.
Khi chúng tôi đi xuống từ ngọn đèo, mặt trời trượt dưới các đỉnh núi và biến biển và mây thành một bài thơ màu sắc. Thiên nhiên thật trác tuyệt trong việc vẽ lại một bức tranh vốn đã đẹp sẵn.

Mười một bánh xe vĩ đại tạo thành guồng nước này được làm hoàn toàn bằng tre buộc vào với nhau. Nhiều bánh xe hợp lại như thế được ráp vào con sông gần Quảng Ngãi để tưới nước cho vùng đất cát bị mặt trời thiêu đốt.

Một cái nhìn cận cảnh những chiếc guồng nước trong hình bên trên. Các ống tre đổ nước sông vào các máng nối liền nhau, từ đó nó được chuyển đến một đường dẫn chính (bên trái phía trước) để phân phối đến các cánh đồng. Các lối đi hẹp cho phép các công nhân vươn đến được các bánh xe khi cần sửa chữa.

Dùng những chiếc rổ tre đan với các sợi dây thừng được buộc cả bên trên lẫn bên dưới, họ múc nước từ sông và trút rổ nước vào các luồng tưới tiêu bằng những động tác nhịp nhàng, khéo léo. Không có chuyện chậm chạp, bởi để phương pháp này thành công, các nông dân phải phối hợp ăn ý.
(còn nữa)