Skip to content
  • ĐĂNG KÝ LÀM THẺ
  • ĐĂNG KÝ TẢI TÀI LIỆU SỐ
Thư viện Nguyễn Văn Hưởng

Thư viện Nguyễn Văn Hưởng

CỔNG THÔNG TIN – NVH LIBRARY'S PORTAL

  • Trang chủ
  • Giới thiệu
    • Giới thiệu thư viện
    • Đội ngũ nhân sự
    • Liên hệ
    • Báo chí
    • Tuyển dụng
  • Dịch vụ thư viện
    • Câu hỏi thường gặp
    • Bảng giá dịch vụ
    • Đăng ký làm thẻ
    • Đăng ký tài khoản Thư viện số
  • Tài nguyên
    • Blog tư liệu
    • Xuất bản
    • Tin tức
  • Danh mục sách
  • Thư viện số
  • Trưng bày trực tuyến
  • Toggle search form
  • Những bước bình thường hóa quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ Blog tư liệu
  • Người tị nạn: Sự tiếp đón lạnh lùng và thận trọng Blog tư liệu
  • Sự du lịch đất Hải Ninh Blog tư liệu
  • Chẳng có chuông nào rung cho hòa bình Blog tư liệu
  • Gặp các bà hoàng cuối triều Nguyễn Blog tư liệu
  • Miền Nam Việt Nam: Cái kết của cuộc chiến tranh ba mươi năm Blog tư liệu
  • Phản không tưởng trong xứ không tưởng: Chủ nghĩa khoái lạ và sự suy đồi ở Đông Dương giai đoạn 1890-1940 (Phần 1) Blog tư liệu
  • Vua cuối cùng của triều đại cuối cùng xin thoái vị Blog tư liệu
  • Giới thiệu sách: Wartime writings 1943 – 1949 Blog tư liệu
  • Thêm nhiều tù binh Mỹ lần đầu xuất hiện trên ảnh Blog tư liệu
  • Diễn văn đối ngoại của Tổng thống Ford về Việt Nam và Campuchia Blog tư liệu
  • Người Hoa ở miền Nam Việt Nam trước khi Pháp xâm lược [1] Blog tư liệu
  • Những cú đấm bão táp hướng về cuộc đàm phán hòa bình Blog tư liệu
  • Tường thuật Ngày Độc lập trên báo Trung Bắc Chủ Nhật Blog tư liệu
  • Dọc theo Con đường Cái Quan của Đông Dương năm 1931 Blog tư liệu

Một vài kỉ niệm về việc thành lập chính quyền cách mạng đầu tiên ở Huế

Posted on 30/08/202504/09/2025 By editor No Comments on Một vài kỉ niệm về việc thành lập chính quyền cách mạng đầu tiên ở Huế

Hồi ký Hoàng Phương Thảo

Cách mạng tháng Tám năm 1945 mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc Việt Nam – kỷ nguyên của độc lập, tự do. Nhưng trong những ngày đầu của kỷ nguyên ấy, việc kiến thiết chính quyền cách mạng cũng đối diện với vô vàn thách thức. Ông Hoàng Phương Thảo, vị Chủ tịch của thành phố Huế ngay sau khi cách mạng thành công, đã kể lại hành trình đặt những viên gạch đầu tiên cho chính quyền mới, xây dựng phong trào, ổn định đời sống nhân dân và góp phần củng cố nền tảng cho nền độc lập vừa giành được. Tạp chí Phương Đông giới thiệu trích đoạn hồi ký “Một vài kỉ niệm về việc thành lập chính quyền cách mạng đầu tiên ở Huế” của ông đăng trên tạp chí Sông Hương số 11 xuất bản năm 1985.

Tôi xuất thân trong một gia đình nhà giáo. Ông nội tôi là cụ Hoàng Thông, dạy Hán văn và làm quản giáo trường Quốc học[1], thân sinh tôi là ông Hoàng Tạo, làm trợ giảng ở Quảng Ngãi.

Mùa thu năm 1924, tôi vào học năm thứ nhất trung học ở Quy Nhơn. Vì xa nhà phải ở trọ ăn cơm tháng trong nhà ông Cử Cơ với một số anh em cùng lớp quê ở Quảng Ngãi.

[…]

Biết được chí hướng của tôi, nên cuối năm 1944 đồng chí Nguyễn Văn Tấn, một trong những người đứng ra tổ chức Việt Minh bí mật của thành phố Huế đã đưa tôi vào hoạt động cho Việt Minh thành, với nhiệm vụ vận động học sinh, công chức và binh lính (lính khố xanh) tham gia và ủng hộ mặt trận Việt Minh, rải truyền đơn ở ngoại thành từ cửa Thượng Tứ đến cửa Đông Ba…

Nhân dân Thừa Thiên Huế tham gia giành chính quyền tại cửa Thượng Tứ ngày 23/8/1945. Ảnh: Bảo tàng Lịch sử Việt Nam

Sau ngày 09/3/1945 Nhật đảo chính Pháp, tôi thôi làm ở tòa Đốc lý và tham gia tổ chức cứu tế nạn đói trong Tổng hội cứu tế Trung Kỳ. Trước ngày khởi nghĩa, tôi đã chuyển hết số gạo và tiền quyên góp được cho tổ chức Việt Minh Nguyễn Tri Phương (tức Việt Minh thống nhất giữa tỉnh và thành phố).

Đến đầu tháng 8 năm 1945, tin Nhật bị thiệt hại nặng trên các chiến trường và bắt đầu tan rã làm dâng lên không khí cách mạng hừng hực khắp thành phố kinh đô triều Nguyễn này. Chúng tôi một mặt tiếp tục lo cứu đói cho dân, mặt khác cùng với anh em đẩy mạnh việc tuyên truyền vận động cách mạng, rải truyền đơn tập quân sự cho đến cái đêm 22 và 23/8/1945 không thể nào quên được. Cả thành phố trải qua một đêm không ngủ, nhộn nhịp may cờ, viết khẩu hiệu, đi lại hội họp. Từ 3 giờ sáng các đoàn người cơm đùm cơm bới, lục tục kéo từ các huyện đổ vào thành phố hòa với nhân dân thành phố thành những đợt sóng người liên tiếp đổ xô về sân vận động dự biểu tình cướp chính quyền.

Cách mạng Tháng Tám thành công, ở Huế chưa có chính quyền riêng. Chỉ có Ủy ban Nhân dân Cách mạng lâm thời Thừa Thiên – Huế quản lý cả sáu huyện và thành phố. Ủy ban Lâm thời do đồng chí Tôn Quang Phiệt làm Chủ tịch đã ra mắt đồng bào trong cuộc mít tinh ở sân vận động. Tôi cũng được chỉ định tham gia Ủy ban Cách mạng Lâm thời đó với chức vụ Ủy viên Tài chính.

Sau Tổng tuyển cử bầu đại biểu Quốc hội khóa I của nước Việt Nam Dân chủ Công hòa, đồng chí Tôn Quang Phiệt (1 trong 2 đại biểu của đơn vị Huế) được điều ra Trung ương công tác thì tôi được chỉ định quyền Chủ tịch tỉnh.

Cho đến ngày có Ủy ban Nhân dân tỉnh chính thức, mọi công việc của chính quyền lâm thời Thừa Thiên – Huế (trụ sở ban đầu đóng ở tòa sứ cũ – nay làm Viện bảo tàng Hồ Chí Minh – sau chuyển vào tòa đại lý ở Tam tòa, nay là trụ sở của Tỉnh ủy Bình Trị Thiên) đều phối hợp với Ủy ban Nhân dân Trung Bộ đón tại Tòa Khâm sứ cũ để tiến hành như tổ chức Tuần lễ vàng (cuối tháng 9/1945); giao thiệp và đối phó với sự phá phách của quân Tưởng Giới Thạch vào tước khí giới của quân Nhật, và sau Hiệp định 6/3, giao thiệp và đối phó với những vụ khiêu khích của quân đội Pháp; tổ chức và tiễn đưa các đội quân Nam tiến (từ tháng 11/1945); tổ chức Tổng tuyển cử bầu đại biểu Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (6/1/1947)…

Mọi việc đều tiến hành tương đối trôi chảy vì đồng bào cả tỉnh đều đồng tâm nhất trí, nhiệt liệt hưởng ứng mọi chủ trương của chính quyền. Kết quả “Tuần lễ vàng” thu được hàng ngàn lạng; hết đợt này đến đợt khác, quân Nam tiến ào ạt kéo vào Nam đánh Pháp; thắng lợi rực rỡ của cuộc bầu cử Quốc hội nói lên tinh thần yêu nước nống nàn của toàn thể nhân dân…

Hoàng tử Kan’in Haruhito tuyên bố Nhật Bản đầu hàng quân Đồng Minh ngày 19/8/1945 tại Sài Gòn. Ảnh chụp bởi phóng viên báo Asahi Shimbum
Sân vận động Huế nhìn từ trên cao, nơi Ủy ban Nhân dân cách mạng lâm thời thành phố ra mắt người dân Thừa Thiên – Huế ngày 23/8/1945. Ảnh: Hội những người bạn cố đô Huế (AAVH)

Nhưng riêng việc đối phó với quân Tàu và quân Pháp thì lại rất phức tạp, khó khăn và hết sức vất vả.

Quân Tàu kéo vào như một bầy chó đói. Lính không ra lính, quan chẳng ra quan. Lính thì đụng gì cũng ăn, thậm chí ăn cả kem đánh răng Gibbs có vị ngòn ngọt, ăn đến trúng thực lăn ra chết tại chỗ. Chúng cướp bóc ở chợ Đông Ba hằng ngày; đồng bào buôn bán dùng đòn gánh phang cho u đầu, sưng trán cũng mặc. Chúng phóng uế bừa bãi chẳng biết nhớp sạch là gì. Có thể nói chúng đi đến đâu thì ruồi nhặng và mùi hôi thối theo đến đó. Trong các trại đồn trú của chúng, đêm nào cũng có năm ba tên chết. Lúc đầu chúng còn lo chôn cất, sau chúng bỏ liều cho thối, chính quyền ta phải lo chôn kẻo mất vệ sinh! Bọn sĩ quan cũng không kém phàm ăn và cướp bóc. Chúng còn gạ gẫm chúng ta để bán vũ khí. Nhưng cái nạn tệ hại nhất chúng gây cho ta là tung tiền quan kim quốc tệ ra mua hàng mang về nước. Không bán cho chúng thì xô xát, đổ máu. Bán cho chúng thì ôm một mớ giấy lộn đun bếp chứ chẳng biết làm gì.

Quân Pháp sau ngày 6/3 thì lại kiểu khác. Như trong bản Hiệp định Sơ bộ đã nói: tất cả các cuộc điều động quân đội Pháp và chỗ trú quân phải được Chính phủ Việt Nam đồng ý trước. Chỗ trú quân của Pháp tại Huế đã được thỏa thuận là đồn Đờ – cuốc – xi (De Courcy)[2]. Trở lại Huế với ý đồ thiết lập lại chế độ thuộc địa nên quân Pháp tìm mọi cách để gây hấn. Không làm gì được ta, chúng rải đinh sắt và mảnh chai trên đường hòng phá hoại xe cộ và gây thương tích cho đồng bào khi đi ngang qua trước đồn chúng… Dựa vào bọn nhà binh, bọn Pháp kiều bị Nhật tập trung trước đây cũng lấn dần kéo ra hạnh họe gây sự với đồng bào ta.

Do trên đã có lệnh phải giữ cho dân bình tĩnh, không để bị khiêu khích, mắc mưu địch kiếm cớ gây hấn nên tôi phải luôn luôn đi giải quyết những vụ xung đột, va chạm giữa đồng bào ta với quân đội và kiều dân Pháp.

Tôi còn nhớ lúc đang làm quyền Chủ tịch tỉnh, một lần tôi suýt nổi nóng với tên tướng Va – luy (Jean Étienne Valluy) trong một buổi tiệc do Pháp chiêu đãi ở nhà tên Công sứ Thừa Thiên cũ (nay là Câu lạc bộ Thiếu nhi) vì thái độ trịnh thượng của hắn ta. Đồng chí Lê Dung – Ủy viên Thư ký của Ủy ban Nhân dân Trung Bộ phụ trách đối ngoại đã kịp thời khẽ nhắc tôi phải bình tĩnh và kiên nhẫn đúng mức.

Một lần khác, tên quan năm chỉ huy quân đội Pháp ở Huế cùng với một tên quan hai đến tìm gặp tôi ở trụ sở để phản đối việc đồng bào ta ngả cây cối làm cản trở việc chuyển quân của chúng. Trước sự hằn học của chúng, tôi vẫn xem như không có chuyện gì xảy ra, niềm nở bảo chúng: “Các ông cứ ngồi xuống đã và hãy nói chuyện tử tế với nhau. Trước mặt các ông là đại diện của chính quyền địa phương có đầy đủ thẩm quyền để giải quyết những yêu cầu của các ông, nếu là chính đáng”. Sau khi mời uống nước, tôi nói: “Các ông phàn nàn nhân dân chúng tôi làm rắc rối, cản trở công việc của các ông. Chúng tôi (kể cả nhân dân) không bao giờ muốn gây chuyện rắc rối, trái lại chúng tôi mong muốn có một không khí hòa hảo giữa hai dân tộc, muốn có một tình hình thật sự ổn định, bởi vì chúng tôi có rất nhiều việc phải làm, còn đâu thì giờ để kiếm chuyện sinh sự với ai.

Tôi chắc rằng, hơn ai hết, các ông biết rất rõ kẻ nào là người muốn phá bĩnh Hiệp định Sơ bộ 6/3 trước. Hôm nay không phải là lần đầu tiên phía các ông làm ầm lên về những vụ rắc rối. Kết quả của các cuộc điều tra trước đây đã chứng minh rất rõ ai muốn gây sự, khiêu khích, và ai muốn yên ổn.

Tuy vậy, để tỏ rõ thiện chí, tôi sẵn sàng cùng đi với các ông đến tận nơi để dàn xếp mọi việc”.

Và chúng tôi lên xe cùng đi và giải quyết ổn thỏa không xảy ra chuyện gì đáng tiếc. Lúc đó tôi cảm tưởng dàn xếp với đồng bào còn khó khăn hơn là đối phó với kẻ địch, vì đồng bào rất hậm hực với thái độ ngang ngược của chúng.

Sau này khi tôi bị chúng phục kích và bắt giam ở nhà lao Thừa Phủ (tháng 4/1947), tên quan hai nói trên (đang công tác ở phòng nhì) có gặp tôi để khai thác tình hình của cuộc kháng chiến ở địa phương. Chẳng moi được gì theo ý muốn, hắn đã nhìn thẳng vào tôi và nói: “Tôi không muốn dùng nhục hình đối với anh, vì anh đã tỏ ra lịch sự đối với chúng tôi trong lần gặp nhau năm ngoái”. Tôi trả lời: “Trước khi được nghe những “lời nhân nghĩa” của ông, tôi đã được nếm đủ các món: hầm đất, roi da và bình tra điện… của các ông rồi”.

Cổng và một góc nhà giam trong nhà lao Thừa Phủ. Ảnh tư liệu.

Sau ngày Chính phủ được chính thức thành lập (2/3/1946), Trung ương có chỉ thị hướng dẫn tổ chức bầu cử Hội đồng Nhân dân Tỉnh và Thành phố.

Trong đêm trước ngày bầu cử, chúng tôi đã tổ chức một cuộc mít tinh quần chúng rất đông tại vườn hoa Thương Bạc để giải thích về nghĩa vụ và quyền lợi của người công dân mới dưới chính thể Dân chủ Cộng hòa. Đồng chí Nguyễn Duy Trinh, Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Trung Bộ nói về nghĩa vụ đóng góp để cứu nước. Tôi nói ý nghĩa của ngày hội lớn bầu cử Hội đồng Nhân dân bằng lá phiếu bầu, lựa chọn người xứng đáng thay mặt mình gánh vác việc nước.

Đúng như lòng mong muốn của chúng tôi, hôm sau, quả là một ngày hội cờ hoa của dân chúng đi bỏ phiếu. Tiếp theo đó cuộc bầu cử Hội đồng Nhân dân Thành phố cũng thắng lợi rực rỡ.

Là quyền Chủ tịch tỉnh, tôi đã vinh dự khai mạc phiên họp đầu tiên của Hội đồng Nhân dân tỉnh Thừa Thiên tại Đại Nội.

Phiên họp này đã bầu ra Ủy ban Nhân dân tỉnh gồm có: Chủ tịch, đồng chí Hoàng Anh; phó Chủ tịch, đồng chí Hoàng Phương Thảo, Ủy viên Thư ký, đồng chí Lâm Mộng Quang.

Chưa kịp nhận nhiệm vụ mới thì cấp trên đã điều tôi sang tham gia Hội đồng Nhân dân Thành phố và được cử làm Chủ tịch của Ủy ban Nhân dân Thành phố Huế với đồng chí Nguyễn Xuân Cảnh làm phó Chủ tịch và đồng chí Cao Đăng Tòng làm Ủy viên Thư ký.

Cụ Hoàng Đức Trạch, một nhân sĩ yêu nước, người cao niên nhất trong Hội đồng Nhân dân Tỉnh được cử thay tôi làm Phó Chủ tịch tỉnh. Ủy ban Nhân dân đầu tiên của thành phố Huế đóng trụ sở tại Bốt Cò (nay là trụ sở của Công an Thành phố).

Nhận một trách nhiệm nặng nề, lúc bấy giờ nỗi lo lắng của tôi không biết để đâu cho hết.

Phải làm gì đây là làm như thế nào?

Thành phố, cho đến lúc đó, mặc dầu do Ủy ban Nhân dân tỉnh kiêm nhiệm, nhưng vì không có bộ phận chuyên trách, nên công việc còn rất bề bộn.

Chúng tôi họp bàn với nhau và thấy rằng trước hết cần phải tổ chức ra mắt quần chúng để tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ của nhân dân. Chúng tôi kịp thời triệu tập một cuộc họp mặt các đại biểu tầng lớp nhân dân trong thành phố tại hội Quảng Trị trên bờ sông Đông Ba. Chúng tôi đã mời rất nhiều trí thức đến dự và yêu cầu họ tích cực cộng tác với chính quyền đang còn non trẻ và thiếu kinh nghiệm.

Dự cuộc họp có đồng chí Nguyễn Duy Trinh, đồng chí Hoàng Anh, đồng chí Trần Thanh Chữ.

Sau lời giới thiệu của đồng chí Chữ, tôi đã phát biểu ý kiến, đại khái như sau:

Giặc Pháp chiếm đóng kinh đô Huế đến nay đã ngót 60 năm. Suốt 60 năm ấy, ông cha ta đã chịu đựng không biết bao nhiêu khổ nhục. Nhờ dân ta đoàn kết một lòng, nhờ sự lãnh đạo tận tình khéo léo của mặt trận Việt Minh, chúng ta đã bẻ gãy được xiềng xích nô lệ, giành được độc lập, tự do, giành được chính quyền.

Trách nhiệm của chúng ta ngày nay là phải ra sức cố gắng làm việc để cho trăm họ trong mai hậu được hạnh phúc. “Nhưng chính quyền không có nhân dân thì không có lực lượng. Nhân dân không có chính quyền thì không có người chỉ đường”. Hồ Chủ tịch đã dạy như vậy. Cho nên chính quyền với nhân dân phải đoàn kết thành một khối cùng nhau xây đắp cho thành phố chúng ta trở nên giàu đẹp. Tôi cũng thay mặt Hội đồng Nhân dân và Ủy ban Nhân dân hứa đem hết năng lực phục vụ sự nghiệp cách mạng, cho hạnh phúc của đồng bào thành phố, quyết thực hiện đúng chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại như trong thư Người gửi cho Ủy ban Nhân dân các cấp tháng 10 năm 1945.

Đánh giá đúng vai trò của thính giả, tôi được bà con tán thành và hứa hẹn giúp đỡ.

Căn cứ vào những huấn thị của Bác, chúng tôi họp Hội đồng Nhân dân để bàn cụ thế phương hướng và nhiệm vụ phải làm trước mắt. Lúc bấy giờ là vào cuối hè năm 1946.

Về chính trị, quan hệ giữa ta và Pháp đang ngày càng xấu thêm. Chúng đang tìm cách phá hoại Hiệp định 6/3. Bọn Việt Nam Quốc dân Đảng cũng lăm le muốn gây rối như tên cuồng tín Nguyễn Trung Thuyết ở An Cựu đang ngấm ngầm tuyên truyền gây chia rẽ. Một số linh mục Thiên chúa giáo thì bí mật liên lạc với quân đội Pháp chiếm đóng mưu toan gây rố… Đồng bào ở thành phố ta tuy kín đáo, điềm đạm, nhưng cũng rất nhạy cảm với tình hình. Phải làm sao giữ được sự bình tĩnh, đoàn kết, đồng tâm nhất trí của đồng bào thì mọi việc mới mong thực hiện được thuận lợi.

Về kinh tế, tuy nạn đói đã bị đẩy lùi nhưng vẫn còn đáng lo, cho nên phải vừa phát động phong trào tăng gia sản xuất để chống và phòng đói, vừa vận động tinh thần tương trợ nhường cơm sẻ áo tiết kiệm gạo, tiền.

Về văn hóa, phong trào bình dân học vụ được đẩy mạnh để sớm xóa nạn mù chữ.

Về quân sự, tiếp tục động viên nhân dân tổ chức tự vệ, luyện tập quân sự, hưởng ứng phong trào Nam tiến đánh Pháp và sẵn sàng chiến đấu bảo vệ thành phố khi cần thiết.

Trong Ủy ban Nhân dân, chúng tôi họp bàn phân công trách nhiệm và phụ trách từng mặt công tác: Chủ tịch phụ trách chung và công tác chính trị (chủ yếu là đối ngoại) và công tác tổ chức.

– Phó Chủ tịch phụ trách kinh tế và văn hóa

– Ủy viên Thư ký phụ trách Văn phòng và những công việc hành chính hàng ngày.

Tôi đã nêu với anh em phương châm làm việc của Ủy ban như sau: “Tranh thủ tiếp xúc trực tiếp – Giải quyết tại chỗ – Nói năng như quần chúng – Viết lách phải dễ hiểu – Công văn giấy tờ càng ít càng tốt”.

Công việc cụ thể thì chúng tôi luôn dựa vào những chỉ thị của Bác đã nêu trong những bức thư, hoặc lời kêu gọi các tầng lớp đồng bào trước đó, như:

– Thư gửi các nhà nông (năm 1945)

– Thư gửi đồng bào toàn quốc ra sức cứu đói (năm  1945)

– Lời kêu gọi chống nạn thất học (tháng 10/1945)

– Thư gửi Ủy ban Nhân dân các cấp (tôi đã nêu trên) v.v…

Lời kêu gọi chống nạn thất học của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 4/10/1945. Ảnh tư liệu

Chúng tôi bắt tay ngay vào việc ổn định sinh hoạt bình thường cho dân. Tập trung giải quyết các vấn đề vệ sinh, điện, nước, sức khỏe cho mọi người. Đẩy mạnh phong trào sản xuất tự túc, nêu cao khẩu hiệu “tấc đất, tấc vàng”. Khoai sắn mọc lên khắp nơi xung quanh thành. Đi vào khỏi cửa Thượng Tứ, cái đập vào mắt trước tiên là những vạt sắn xanh um phơi mình dưới nắng.

Ban đêm đèn dầu sáng khắp nơi, đầu đường cuối xóm, đâu đâu cũng vang lên tiếng ê a đánh vần học quốc ngữ.

Bên cạnh hai phong trào tăng gia sản xuất và học bình dân học vụ là phong trào tập tự vệ. Lực lượng tự vệ rất đông đảo và nó trở thành lực lượng bổ sung cho các đoàn quân Nam tiến, và cũng là lực lượng chủ yếu đánh giặc tại Huế, liền sau ngày toàn quốc kháng chiến (9/12/1946).

Về hành chính, lãnh thổ của Huế chia làm tám khu phố: khu phố I và II ở trong thành nội; khu phố III ở xung quanh thành (nay là Phú Hòa và Phú Thạnh); khu phố IV là toàn vùng Gia Hội (từ cầu Gia Hội đến Bãi Dâu); khu phố V (từ Đập Đá xuống hết Vĩ Dạ); khu phố VI (từ Đập Đá trở lên và vùng xung quanh sân vận động cho đến cầu An Cựu); khu phố VII (từ cầu Trường Tiền lên đến cầu Lòn, bao quanh chùa Bảo Quốc và nhà ga); khu phố VIII gồm vùng mặt nước (từ cầu Giã Viên đến cầu Bao Vinh và đến chợ Vĩ Dạ bao quanh Cồn Hiến).

Mỗi khu phố đều có Chủ tịch, phó Chủ tịch và Ủy viên Thư ký.

Ngoài việc thành lập một số ngành như công an, công chính – giao thông, y tế, giáo dục; chúng tôi đặc biệt chú ý, cùng với đoàn thể phụ nữ sắp xếp, chỉnh đốn lại các chợ. Nhất là chợ Đông Ba, nơi gặp gỡ, tụ hội chị em buôn bán nhỏ từ các nơi về. Họ là những người giúp chính quyền làm công tác lưu thông phân phối, nhưng đồng thời vô hình chung cũng là những người truyền tin mau lẹ nhất; qua họ mà phổ cập đến đồng bào một phần những chính sách thuế khóa, quyên góp và ủng hộ kháng chiến chống Pháp. Họ cũng là những người hưởng ứng mau chóng các lời kêu gọi của chính quyền.

Quang cảnh chợ Đông Ba những năm 1940 nhìn từ trên cao. Ảnh: Hội những người bạn Cố đô Huế (AAVH)

Công việc cứ như thế tiến hành đều đều. Và mỗi lần phát sinh vấn đề mới, chúng tôi thay nhau đi tận nơi, giải quyết tận gốc, cốt bớt phiền hà cho nhân dân.

Nhưng giặc Pháp đẩy mạnh mưu đồ cướp nước ta một lần nữa. Ở miền Bắc chúng khiêu khích đánh chiếm Móng Cái, Tiên Yên, Lạng Sơn (20/11/1946), gây hấn ở Hải Phòng (21/11/1946). Tình hình đó buộc chúng tôi nghĩ đến tình huống xấu nhất có thể xảy ra cho Huế.

Cuối tháng 11/1946, chúng tôi mở cuộc họp liên tịch (Hội đồng Nhân dân, Ủy ban Nhân dân và các ngành chuyên môn) bàn kế hoạch tản cư nhằm bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân thành phố khi có chiến tranh thật sự. Trong những ngày đầu tháng 12/1946, kế hoạch được phổ biến đến tận khu phố và ra ngoài nhân dân.

Hiểu rõ tản cư cũng là kháng chiến, nên mọi nhà đều bình tĩnh, lặng lẽ chuẩn bị chờ lệnh chính phủ. Nhờ vậy, đến khi tiếng súng toàn quốc kháng chiến phát ra, đồng bào của thành phố không một ai ngạc nhiên và lúng túng.

Ủy ban Nhân dân Thành phố bước đầu di chuyển vào trong thành, bước thứ hai về Bao Vinh và sau cùng về Hương Cần, cho đến khi mặt trận Thuận Hóa vỡ.

Sau sự kiện lịch sử này, hoạt động của chính quyền chuyển sang một phương thức khác. Một bộ phận anh chị em được đưa ra khu Bốn. Riêng tôi được ở lại hoạt động.

*

Thuở ban đầu của cách mạng, công việc của chính quyền thật là mới mẻ và bề bộn. Nhưng nhờ nhân dân và chính quyền đều một lòng một dạ nên việc gì cũng tương đối trôi chảy.

Riêng đối với bản thân tôi, có ba yếu tố đã giúp tôi vượt qua khó khăn, thử thách lúc đầu và cả sau này nữa:

1. Sự lãnh đạo và gần gũi của Đảng thể hiện cụ thể trong sự tin cậy, cổ vũ và dìu dắt của đồng chí Nguyễn Chí Thanh, mà hình ảnh luôn ở trong trái tim tôi như một lãnh tụ vừa kính yêu, vừa mến phục. Lúc bấy giờ, mặc dù tôi vừa mới hết thời gian đảng viên dự bị, tôi vẫn được đồng chí Thanh cho dự thính cùng với đồng chí Nguyễn Văn Tấn một vài cuộc họp của xứ ủy Trung Kỳ bàn về những vấn đề mà chúng tôi phụ trách.

2. Mối tình trong sáng và ấm áp của những đồng chí xung quanh cùng chung chí hướng. Lương ít mà việc nhiều, song không hề một ai có tính toán riêng tư, chỉ một mực ngày đêm làm việc hết mình.

3. Con người Huế hiền lành, dũng cảm, kín đáo và nhiệt tình. Biết yêu, ghét, chê, khen nhưng không sỗ sàng bộc lộ.

Sau hơn 30 năm kháng chiến, tôi lại trở về trong lòng thành phố Huế với vị trí cũ: Chủ tịch Ủy ban Nhân dân.

Đồng bào, đồng chí có người bảo tôi “chung thủy với Huế”. Nhưng cũng có người lại nói tôi “dẫm chân tại chỗ”.

Chung thủy hay không chung thủy; dẫm chân tại chỗ hay không dẫm chân tại chỗ, không phải do người này hay người khác nói, mà theo tôi là do ý nghĩa chứa đựng trong từng việc làm của tôi trên mảnh đất thân yêu này.

Huế, 9/1984

Nguyễn Đắc Xuân ghi


[1] Cụ Hoàng Thông đã từng theo Vua Hàm Nghi chống Pháp, sau về dạy Hán văn và làm quản giáo (Phó Hiệu trưởng) trường Quốc học, là giáo viên Hán văn của Bác Hồ lúc Người học Quốc học (1908). Cụ cũng là người đứng đầu hội buôn Đông Vĩnh lấy tiền lời giúp phong trào Đông Du. Cụ bị bắt khi phong trào chống sưu thuế năm 1908 nổ ra ở Huế.

[2] Tên tướng Pháp đã đem quân đội và tàu chiến vào đánh chiếm kinh đô Huế ngày 5/7/1885 mà nhân dân ta thường gọi là sự kiện thất thủ kinh đô. Nay là Mang Cá.

Blog tư liệu Tags:Cách mạng Tháng Tám, chế độ thực dân, Đảng Cộng sản Việt Nam, Đông Dương, Pháp, thuộc địa

Post navigation

Previous Post: Thời kỳ tiền khởi nghĩa và Cách mạng Tháng Tám năm 1945 qua tài liệu của Pháp
Next Post: Sự sôi nổi thiết tha của dân chúng Việt Nam đối với nền độc lập hoàn toàn được một nhà nhiếp ảnh trong phái bộ quan sát Mỹ thu hết vào ống kính đem về Hoa Thịnh Đốn

More Related Articles

Chân dung Đông Dương qua 21 bức tranh vẽ của Jean Despujols Blog tư liệu
Thăm quan Bảo tàng Maurice Long – Một công trình lộng lẫy của Hà Nội xưa Blog tư liệu
Thái Nguyên trong ngày Tổng khởi nghĩa Blog tư liệu
Giới thiệu sách: The great hill stations of Asia Blog tư liệu
Hồi ký Trần Oanh – Người đầu tiên kéo cờ Cách mạng Tháng Tám tại Nha Trang Blog tư liệu
Hồi kết của cuộc chiến ở Đông Dương (1954) Blog tư liệu

Leave a Reply Cancel reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

  • Tạp chí Phương Đông Official Channel
  • Thư viện Nguyễn Văn Hưởng Fanpage
Tạp chí Phương Đông số tháng 10-2024

Chuyên đề

  • Việt Nam trên báo Mỹ
  • Tạp chí Phương Đông

Kết nối với chúng tôi

Nguồn tài liệu

  • The Vietnam Center and Sam Johnson Vietnam Archive
  • MSU Vietnam Group Archive
  • The Wilson Center Digital Archive
  • The National Security Archive
  • CIA Historical Collections
  • Office of the Historian – U.S. Department of State
  • National Archives
  • Internet Archive
  • United Nations Archives
  • Journal of Vietnamese Studies
  • Harvard-Yenching Library
  • Yale University Digital Collections: Maurice Durand Han Nom
  • Digital Libraries – Gallica – BnF
  • Les Archives nationales d’outre-mer
  • Bulletin de l’École française d’Extrême-Orient
  • Sách Đông Dương – Thư viện QGVN
  • Thư tịch Hán Nôm – Thư viện QGVN
  • Báo chí số hóa – Thư viện QGVN

Bài mới

  • Đông Dương quanh co (Kỳ 2: Từ Sài Gòn tới Đà Lạt)
  • Giáo dục dưới thời Toàn quyền Albert Sarraut và Martial Merlin
  • Mặt trận phản chiến bên trong nước Mỹ
  • Cuộc chiến “châu chấu đá voi” ở Việt Nam
  • Hoạt động tình báo ở các đô thị Việt Nam bị địch tạm chiếm giai đoạn 1945 – 1954

Lưu trữ

TRƯNG BÀY KỶ VẬT CHIẾN SĨ

Tags

1945 1954 1975 Bảo Đại Báo chí Campuchia Chiến tranh Việt Nam Chiến tranh Đông Dương chế độ thực dân chủ nghĩa thực dân Chủ tịch Hồ Chí Minh CIA Cách mạng Tháng Tám giới thiệu sách Hoa Kỳ Huế Hồ Chí Minh Hà Nội Mỹ nghệ thuật ngoại giao Ngô Đình Diệm Ngô Đình Nhu phong trào phản chiến phong tục phản chiến Pháp POW/MIA Quan hệ Việt - Mỹ Sài Gòn thuộc địa Thập niên 1960 Thực dân Pháp triều Nguyễn Tết tình báo Vietnam War Việt Minh Việt Nam Cộng hòa Việt Nam thời hậu chiến Việt Nam trên báo Mỹ văn hóa Đảo chính Đông Dương Đông Nam Á

Đăng ký

  • ĐĂNG KÝ LÀM THẺ
  • ĐĂNG KÝ TẢI TÀI LIỆU SỐ
  • Một góc nhìn thời cuộc Xuất bản
  • Đối thoại với các phái đoàn Hoa Kỳ Xuất bản
  • Nước Nga trong thế giới đa cực Xuất bản
  • Thế giới đang thay đổi – Trật tự đa cực xuất hiện Xuất bản
  • Tầm nhìn từ Lịch sử Xuất bản
  • Những biên bản cuối cùng tại Nhà Trắng: Phút sụp đổ của Việt Nam Cộng Hòa Xuất bản
  • Cuộc chiến của tôi với CIA: Hồi ký của Hoàng thân Norodom Sihanouk Xuất bản
  • Chuyến thăm Hà Nội Xuất bản
  • Chợ Lớn 1955: Ký và họa Xuất bản
  • Con đường thiên lý: Hành trình kỳ lạ của các sứ bộ Anh Quốc tới Việt Nam thế kỷ 17 – 19 Xuất bản
  • Thắng địa Thăng Long – Địa linh đất Việt Xuất bản
  • Pol Pot: Mổ xẻ một cơn ác mộng Xuất bản
  • Giải phóng Xuất bản
  • Miền đất vàng Đông Dương Xuất bản
  • Biển Đông – Nhìn từ góc độ lịch sử và pháp lý Xuất bản

Copyright © 2025 Thư viện Nguyễn Văn Hưởng.