Skip to content
  • ĐĂNG KÝ LÀM THẺ
  • ĐĂNG KÝ TẢI TÀI LIỆU SỐ
Thư viện Nguyễn Văn Hưởng

Thư viện Nguyễn Văn Hưởng

CỔNG THÔNG TIN – NVH LIBRARY'S PORTAL

  • Trang chủ
  • Giới thiệu
    • Giới thiệu thư viện
    • Đội ngũ nhân sự
    • Liên hệ
    • Báo chí
    • Tuyển dụng
  • Dịch vụ thư viện
    • Câu hỏi thường gặp
    • Bảng giá dịch vụ
    • Đăng ký làm thẻ
    • Đăng ký tài khoản Thư viện số
  • Tài nguyên
    • Blog tư liệu
    • Xuất bản
    • Tin tức
  • Danh mục sách
  • Thư viện số
  • Trưng bày trực tuyến
  • Toggle search form
  • Ghi chú mật và báo cáo giám sát của Pháp về Nguyễn Ái Quốc năm 1920 Blog tư liệu
  • Giới thiệu bộ sách tư liệu của Viện Bảo tồn Di tích Blog tư liệu
  • Mật vụ dưới thời Ngô triều Blog tư liệu
  • Miền Nam Việt Nam buổi giao thời tháng 4-5/1975 Blog tư liệu
  • Người tị nạn: Sự tiếp đón lạnh lùng và thận trọng Blog tư liệu
  • Đông Dương và Thế giới Mã Lai[1]: Một cái nhìn khái quát về quan hệ Mã Lai-Việt Nam đến giữa thế kỷ XIX Blog tư liệu
  • Người Hoa ở miền Nam Việt Nam trước khi Pháp xâm lược [1] Blog tư liệu
  • “Giống như đi trên tên lửa”: Phi công Mỹ nhớ lại nỗi kinh hoàng của cuộc ném bom Giáng sinh năm 1972 ở Việt Nam Blog tư liệu
  • Nhà báo Mỹ điều trần trước Thượng viện về chuyến thăm miền Bắc Việt Nam cuối năm 1966 Blog tư liệu
  • Những thành tựu của cuộc Cách mạng Tháng Tám Blog tư liệu
  • Sự chuyển đổi ý niệm về hình tượng con trâu trong hội hoạ Việt Nam Blog tư liệu
  • Tết Nguyên đán của người Bắc Kỳ vào thế kỷ XVII qua ghi chép của linh mục Ý Blog tư liệu
  • Quốc thư trao đổi giữa vua Louis XIV và Chúa Trịnh năm 1681 Blog tư liệu
  • Tài liệu giải mật Nixon, Kissinger và những kế hoạch theo chiến lược “Kẻ điên rồ” trong năm 1969 Blog tư liệu
  • Nhớ Hà Nội Blog tư liệu

Cờ, lọng, võng – Những biểu tượng quyền lực thời phong kiến

Posted on 21/11/2024 By editor No Comments on Cờ, lọng, võng – Những biểu tượng quyền lực thời phong kiến

Đỗ Bằng Đoàn – Đỗ Trọng Huề

Thời xưa, cờ, lọng, võng không chỉ là những vật dụng trang trí quen thuộc hay phương tiện di chuyển, mà còn là những vật tượng trưng cho quyền lực và địa vị của người sử dụng. Các lá cờ thêu tinh xảo với nhiều màu sắc và hình dáng khác nhau đều mang trong mình một câu chuyện văn hóa và tín ngưỡng riêng. Lọng vàng lấp lánh hay võng điều đỏ thắm đã trở thành biểu tượng cho sự uy nghi, sang trọng và tôn kính. Tạp chí Phương Đông trân trọng mời bạn đọc khám phá ý nghĩa của những biểu tượng này trong đời sống và lễ nghi thời xưa qua trích đoạn trong quyển Những đại lễ và vũ khúc của vua chúa Việt Nam của Đỗ Bằng Đoàn và Đỗ Trọng Huề, do NXB Hoa Lư xuất bản năm 1969.

I. Các thứ cờ thời xưa

    Quốc kỳ hay Đại kỳ: treo bên kỳ đài hình chữ nhật bằng trừu, nỉ, hoặc dạ tốt sắc vàng, ba bề có riềm như răng cưa bằng dạ sắc vàng nhạt, trong thêu con rồng. Ngày đại lễ treo cờ rộng 9 thước, dài 10 thước. Ngày thường triều và mồng một mười rằm treo cờ rộng 8 thước dài 9 thước. Những ngày thường treo cờ rộng 7 thước 5 tấc, dài 8 thước 5 tấc.

    Môn kỳ: Hình vuông bằng nỉ hoặc dạ, ba bề riềm răng cưa cũng theo như màu lá cờ; có 5 lá:

    Cửa đông: Sắc xanh

    Cửa tây: Sắc trắng

    Cửa nam, đông nam, tây nam: Sắc đỏ

    Cửa bắc, đông bắc, tây bắc: Sắc tím

    Cửa giữa: Sắc vàng

    Cờ tam tài: hình tam giác bằng nỉ hoặc dạ, tượng trưng cho thiên (trời), địa (đất), nhân (người); tục gọi là cờ đuôi nheo; có 5 lá. Cờ tam tài đi đầu trong các đám rước.

    Cờ tứ phương: hình vuông bằng nỉ hoặc dạ; có 4 lá:

    Phương đông: Sắc xanh, thêu sao Thanh Long, chủ về Đại An (yên ổn)

    Phương tây: Sắc trắng, thêu sao Bạch Hổ, chủ về tốc hỷ (mau đến sự vui mừng)

    Phương nam: Sắc đỏ, thêu sao Chu Tước, chủ tránh xích khẩu (tránh dèm pha miệng tiếng)

    Phương bắc: Sắc tím, thêu sao Huyền Vũ, chủ về lưu liên (bền lâu)

    Cờ ngũ hành: hình vuông bằng nỉ hoặc dạ; có 5 lá:

    Sắc xanh: thuộc mộc

    Sắc đỏ: thuộc hỏa

    Sắc trắng: thuộc kim

    Sắc tím: thuộc thủy

    Sắc vàng thuộc thổ

    Cờ ngũ hành dưới triều Tự Đức. Tranh của R. Bolliand trong album “Armée de campagne sous le règne de Tu’ Duc” (Quân ngũ thời Tự Đức) gồm khoảng 40 bức vẽ

    Cờ nhị thập bát tú: hình vuông bằng nỉ hoặc dạ; có 28 lá, mỗi lá thêu một ngôi sao:

    GiốcCangĐêPhòng
    TâmVĩCơĐẩu
    NgưuNữHưNguy
    ThấtBíchKhuêLâu
    VịMãoTấtChủy
    SâmTỉnhQuỷLiễu
    TinhTrươngDựcChẩn
    Cờ Nhị Thập Bát Tú trong lễ tế Nam Giao ở Huế. Ảnh tư liệu

    Cờ thập nhị thời thần: hình vuông bằng nỉ hoặc dạ; có 12 lá, trong vòng viết 1 chữ:

    3 lá sắc xanh thuộc mùa xuân, viết chữ Dần, Mão, Thìn.

    3 lá sắc đỏ, thuộc mùa hạ, viết chữ Tỵ, Ngọ, Mùi.

    3 lá sắc trắng, thuộc mùa thu, viết chữ Thân, Dậu, Tuất.

    3 lá sắc tím, thuộc mùa đông, viết chữ Hợi, Tý, Sửu.

    Cờ bát quái: Hình vuông bằng nỉ hoặc dạ; có 8 lá, mỗi lá vạch một quẻ: 

    CànKhảmCấnChấn
    TốnLyKhônĐoài

    Cờ phong, vân, lôi, vũ: Hình vuông bằng nỉ hoặc dạ; có 4 lá, tượng trưng cho 4 vị thần Gió, Mây, Sấm, Mưa.

    Cờ long vân: Hình vuông bằng dạ hoặc nỉ, thêu rồng mây, có 20 lá.

    Cờ vân cẩm: Hình vuông bằng dạ hoặc nỉ thêu đám mây, có 25 lá.

    Cờ cảnh, cờ tất: cũng gọi là cờ xuất cảnh nhập tất; hình tam giác bằng đoạn màu hồng, trên đầu ngù bằng lông chim trả, cán sơn son, có 2 lá. Cảnh nghĩa là răn bảo, tất nghĩa là cấm đường. Ngày xưa vua đi đâu, có hai viên quan võ cưỡi ngựa, một cầm cờ cảnh, một cầm cờ tất đi trước để cấm đường, không cho dân chúng qua lại.

    Cờ bắc đẩu: hình vuông bằng nhiễu màu hồng, thêu 7 ngôi sao (thất tinh) tượng trưng cho quyền vua, trên đầu ngù bằng lông chim trả, cán sơn son; có 1 lá. Cờ bắc đẩu đi trước kiệu, trong đám rước vua chúa.

    Cờ long, phượng, nhật, nguyệt cũng gọi là cờ mao: hình vuông, bằng nhiễu màu hồng, trên đầu ngù bằng lông chim trả, cán sơn son; có 4 lá:

    1 lá thêu con rồng, 1  lá thêu con phượng, tượng trưng cho sự uy nghi, thịnh vượng của nhà vua.

    1 lá thêu mặt trời, 1 lá thêu mặt trăng, tượng trưng cho sự thông minh, sáng suốt và óc quyết đoán của nhà vua.

    Cờ long, phượng, nhật, nguyệt đi trước kiệu, trong đám rước vua chúa. 

    Các thứ cờ kể trên, giải và riềm đều theo với sắc cờ nhưng dùng màu nhạt hơn.

    Cờ tiết mao: trên đầu là hình đầu rồng bằng gỗ sơn son thếp vàng, mắc vào miệng rồng 5 tầng dây kim tuyến đeo 5 cái ngù bằng lông đuôi trâu rừng hoặc bằng râu dê. Cán cờ sơn son dài hơn 3 thước. Cờ tiết mao vua ban cho sứ thần cầm đi sứ các nước, hoặc quan Khâm mệnh thay vua đi tế các đền miếu và phong tước cho quan đại thần.

    Đời Lê những thứ cờ kể trên, chỉ dùng để rước vua, chúa đi tế Giao, Miếu hoặc tuần du các nơi. Còn rước thần dùng cờ đuôi nheo, cờ vuông trong vẽ hoặc thêu phượng hoàng và mây bay. Rước thần thượng đẳng dùng 24 lá, thêu phượng hoàng; trung đẳng 20 lá; hạ đẳng 16 lá thêu mây bay. Đến đời Nguyễn từ năm Đồng Khánh về sau, cờ phượng hoàng và cờ mây bay không thấy nữa. Rước thần cũng dùng cờ tam tài, cờ tứ phương, cờ ngũ hành.

    Trong quân ngũ dùng nhiều thứ cờ riêng biệt, đại loại như cờ lệnh cũng gọi là cờ tinh, hình tam giác bằng đoạn màu hồng, trong thêu chữ Lệnh, của các tướng phất ra lệnh cho quân. Quân sĩ thấy cờ thiên địa thì tiến lên, thấy cờ tứ định thì đi thong thả, cờ ngũ hành đi nhanh, cờ lục hợp thổi cơm, cờ bát quái thả neo thuyền, cờ tam tài nhổ neo thuyền. Lại còn cờ thúy hoa, cờ thiên mã, cờ thiên lộc, cờ bạch tượng, cờ thanh sư, cờ xích hùng, cờ hoàng bi, cờ du lân, cờ tường phượng, cờ bạch trạch, cờ tịch tà, cờ dốc đoan và nhiều thứ khác kể ra không xiết.

    Kỵ binh, tượng binh dưới triều Tự Đức. Tranh của R. Bolliand trong album “Armée de campagne sous le règne de Tu’ Duc” (Quân ngũ thời Tự Đức) gồm khoảng 40 bức vẽ

    Cờ hiệu của ngũ quan thường dùng cờ đuôi nheo hoặc vuông bằng dạ nhưng màu khác nhau

    Trung quân: Sắc vàng tươi

    Tiền quân: Sắc đỏ thẫm

    Tả quân: Sắc xanh thẫm

    Hữu quân: Sắc trắng

    Hậu quân: Sắc đen 

    Ngoài ra còn có cờ lông công là cờ hiệu của phu trạm. Cờ lông công làm bởi 3 cái lông đuôi con công buộc chùm trên bờm ngựa. Phu trạm chạy công văn cần kịp, buộc cờ lông công trên bờm ngựa, cổ ngựa đeo nhạc đồng, khách bộ hành gặp phải nhường lối cho đi. Tới các bến đò, phu trạm được quyền ưu tiên sang sông.

    Hình ảnh người phu trạm trên tem thư xưa

    II. Lọng 

    Vua đi 4 lọng vàng 28 bông bèo[1] chóp mạ vàng, cán gỗ sơn son.

    Vua Khải Định trong lễ tế Nam Giao năm 1924. Ảnh tư liệu

    Hoàng tử: 4 lọng đỏ hoặc lọng tía 20 bông bèo, chóp thau mạ vàng, cán gỗ sơn son.
    Các quan văn từ Tuần phủ, võ từ Đề đốc trở lên: 4 lọng xanh, 16 bông bèo, chóp thiếc mạ bạc, cán tre quét sơn cánh gián. 

    Các ông tân khoa Cử nhân: 1 lọng xanh 4 bông bèo, chóp sơn xanh, cán tre, những đốt tre quét thiếc.

    Gặp lễ quan, hôn, tang, tế, thường dân cũng được đi 1 lọng xanh, không có bông bèo.

    Thần thượng đẳng: 4 lọng vàng, 20 bông bèo, chóp sơn thếp vàng. Thần trung đẳng: 4 lọng vàng, 16 bông bèo, chóp thiếc. Phúc thần: 4 lọng xanh 12 bông bèo, chóp sơn trắng.

    III. Võng

      Văn từ Tuần phủ, võ từ Đề đốc trở lên đi võng[2] điều ngáng[3] bằng 2 ngà voi, đòn khiêng sơn son, hai đầu chỗ để mắc võng có 2 con ly, chấu sơn son.

      Bố chánh, Án sát, Lãnh binh: võng thắm, ngáng bằng gỗ xương cá sơn son, đòn khiêng sơn son, hai đầu chỗ để mắc võng có 2 con sấu, chấu sơn son.

      Tổng đốc Hà Nội ngồi võng với 4 chiếc lọng. Ảnh: Pierre Dieulefils

      Tri phủ, Tri huyện, Chánh phó quản: võng xanh, ngáng bằng gỗ xương cá sơn gián sắc, đòn khiêng sơn then, hai đầu chỗ để mắc võng có 2 con phúc (dơi), chấu sơn gián sắc.

      Trong những dịp quan, hôn, tang, tế, thường dân cũng được đi võng nhưng gọi là cáng, nhuộm màu xanh nhạt, ngáng bằng gỗ sơn trắng, không có chấu. Những người nhiều tuổi thường ngày cũng được dùng cáng.■


      [1] Bông bèo: tròn như quả táo ta, làm bằng bông nhuộm ngũ sắc, xâu dây chỉ dài 5, 6 tấc buộc lòng thòng vào nan lọng rủ xuống. Đời Trần, tôn thất, vương hầu đi 4 lọng tía; quan văn võ từ nhị phẩm đến  ngũ phẩm đi 2 lọng xanh, từ lục phẩm đến cửu phẩm đi một lọng đen.

      [2] Võng: dệt bằng gai lõi, nền hoa tròn. Trên có mui luyện để che mưa nắng, đan bằng tre rồi sơn then, hai bên che mành cánh sáo bằng vóc. Võng không mui gọi là võng trần. Các đám rước phần nhiều dùng võng trần, chỉ khi nào đi xa mới dùng võng có mui. Người đi võng trần ngồi xếp bằng tròn ở trong võng, đi võng có mui thì nằm và có thể ngủ trong võng. Các quan đi võng có 2 người khiêng, 2 người vác chấu, khi nào nghỉ thì gác võng lên chấu.

      [3] Ngáng: Hai ngáng hai đầu võng hình cong dài ước 80 cm để xâu dây ở đầu võng vào, rồi kéo chụm lại mắc vào đòn võng.

      Blog tư liệu Tags:phong tục, văn hóa

      Post navigation

      Previous Post: Hệ thống giáo dục và phẩm chất của người Việt Nam truyền thống
      Next Post: Vài nhận xét về việc viết tên đất ở Việt Nam

      More Related Articles

      Thú chơi ngày Tết của thanh niên ta ngày xưa như thế nào? Blog tư liệu
      Tầm nhìn từ Lịch sử Xuất bản
      Những lễ Tết đầu xuân của Triều đình Huế Blog tư liệu
      Nhớ Hà Nội Blog tư liệu
      Hệ thống giáo dục và phẩm chất của người Việt Nam truyền thống Blog tư liệu
      Chân dung Việt Nam đằng sau những tiêu đề báo chí Blog tư liệu

      Leave a Reply Cancel reply

      Your email address will not be published. Required fields are marked *

      • Tạp chí Phương Đông Official Channel
      • Thư viện Nguyễn Văn Hưởng Fanpage
      Tạp chí Phương Đông số tháng 10-2024

      Chuyên đề

      • Việt Nam trên báo Mỹ
      • Tạp chí Phương Đông

      Kết nối với chúng tôi

      Nguồn tài liệu

      • The Vietnam Center and Sam Johnson Vietnam Archive
      • MSU Vietnam Group Archive
      • The Wilson Center Digital Archive
      • The National Security Archive
      • CIA Historical Collections
      • Office of the Historian – U.S. Department of State
      • National Archives
      • Internet Archive
      • United Nations Archives
      • Journal of Vietnamese Studies
      • Harvard-Yenching Library
      • Yale University Digital Collections: Maurice Durand Han Nom
      • Digital Libraries – Gallica – BnF
      • Les Archives nationales d’outre-mer
      • Bulletin de l’École française d’Extrême-Orient
      • Sách Đông Dương – Thư viện QGVN
      • Thư tịch Hán Nôm – Thư viện QGVN
      • Báo chí số hóa – Thư viện QGVN

      Bài mới

      • Nguyễn Trung Trực – một “Kinh Kha” chống Pháp của miền Nam
      • Tài liệu giải mật Nixon, Kissinger và những kế hoạch theo chiến lược “Kẻ điên rồ” trong năm 1969
      • Nixon và cuộc diệt chủng Campuchia
      • Phóng viên chiến trường nước ngoài và cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc Việt Nam
      • Tầm nhìn từ Lịch sử

      Lưu trữ

      TRƯNG BÀY KỶ VẬT CHIẾN SĨ

      Tags

      1945 1954 1975 Bảo Đại Báo chí Chiến tranh Việt Nam Chiến tranh Đông Dương chế độ thực dân chủ nghĩa thực dân Chủ tịch Hồ Chí Minh CIA Cách mạng Tháng Tám giới thiệu sách Hoa Kỳ Huế Hồ Chí Minh Hà Nội Mỹ nghệ thuật ngoại giao Ngô Đình Diệm Ngô Đình Nhu Nhật phong trào phản chiến phong tục phản chiến Pháp POW/MIA Quan hệ Việt - Mỹ Sài Gòn thuộc địa Thập niên 1960 Thực dân Pháp triều Nguyễn Tết tình báo Vietnam War Việt Minh Việt Nam Cộng hòa Việt Nam thời hậu chiến Việt Nam trên báo Mỹ văn hóa Đảo chính Đông Dương Đông Nam Á

      Đăng ký

      • ĐĂNG KÝ LÀM THẺ
      • ĐĂNG KÝ TẢI TÀI LIỆU SỐ
      • Pol Pot: Mổ xẻ một cơn ác mộng Xuất bản
      • Thế giới đang thay đổi – Trật tự đa cực xuất hiện Xuất bản
      • Chuyến thăm Hà Nội Xuất bản
      • Nước Nga trong thế giới đa cực Xuất bản
      • Thắng địa Thăng Long – Địa linh đất Việt Xuất bản
      • Một góc nhìn thời cuộc Xuất bản
      • Giải phóng Xuất bản
      • Tầm nhìn từ Lịch sử Xuất bản
      • Biển Đông – Nhìn từ góc độ lịch sử và pháp lý Xuất bản
      • Đối thoại với các phái đoàn Hoa Kỳ Xuất bản
      • Chợ Lớn 1955: Ký và họa Xuất bản
      • Những biên bản cuối cùng tại Nhà Trắng: Phút sụp đổ của Việt Nam Cộng Hòa Xuất bản
      • Cuộc chiến của tôi với CIA: Hồi ký của Hoàng thân Norodom Sihanouk Xuất bản
      • Nước mắt mùa thu Xuất bản
      • Con đường thiên lý: Hành trình kỳ lạ của các sứ bộ Anh Quốc tới Việt Nam thế kỷ 17 – 19 Xuất bản

      Copyright © 2025 Thư viện Nguyễn Văn Hưởng.