Skip to content
  • ĐĂNG KÝ LÀM THẺ
  • ĐĂNG KÝ TẢI TÀI LIỆU SỐ
Thư viện Nguyễn Văn Hưởng

Thư viện Nguyễn Văn Hưởng

CỔNG THÔNG TIN – NVH LIBRARY'S PORTAL

  • Trang chủ
  • Giới thiệu
    • Giới thiệu thư viện
    • Đội ngũ nhân sự
    • Liên hệ
    • Báo chí
    • Tuyển dụng
  • Dịch vụ thư viện
    • Câu hỏi thường gặp
    • Bảng giá dịch vụ
    • Đăng ký làm thẻ
    • Đăng ký tài khoản Thư viện số
  • Tài nguyên
    • Blog tư liệu
    • Xuất bản
    • Tin tức
  • Danh mục sách
  • Thư viện số
  • Trưng bày trực tuyến
  • Toggle search form
  • “Người hiệp nữ” làm nội ứng cho Đội Cấn và Lương Ngọc Quyến Blog tư liệu
  • Cờ, lọng, võng – Những biểu tượng quyền lực thời phong kiến Blog tư liệu
  • Mặt trận mới của Mỹ trong cuộc chiến đang leo thang: Đồng bằng Sông Cửu Long – đầm lầy nghi kỵ Blog tư liệu
  • Book review: Chợ Lớn 1955 Báo chí
  • Phụ nữ Tây Phương nhìn phụ nữ Việt Nam 100 năm trước (Kỳ 2) Blog tư liệu
  • Trương Định: vị anh hùng kháng Pháp kiên trung Blog tư liệu
  • Hồ Chủ tịch nói về nội trị, ngoại giao nước nhà trong những ngày đầu độc lập Blog tư liệu
  • Gặp các bà hoàng cuối triều Nguyễn Blog tư liệu
  • Phản không tưởng trong xứ không tưởng: Chủ nghĩa khoái lạ và sự suy đồi ở Đông Dương giai đoạn 1890-1940 (Phần 2) Blog tư liệu
  • Cuộc khủng hoảng nhà ở Hà Nội cuối thập niên 80 Blog tư liệu
  • Lá cờ Mặt trận Giải phóng trên đỉnh tháp nhà thờ Đức Bà Paris Blog tư liệu
  • Nha Trang khởi nghĩa Blog tư liệu
  • Những cuốn sách viết về Thập niên 1960 Blog tư liệu
  • Tết Trung thu: Lễ hội của rồng và mặt trăng Blog tư liệu
  • Tâm trạng người Mỹ quanh vụ Tập kích Sơn Tây Blog tư liệu

Những khoảnh khắc quyết định trong ngày 30/4/1975

Posted on 28/04/2025 By editor No Comments on Những khoảnh khắc quyết định trong ngày 30/4/1975

Nguyễn Hữu Thái 

Cách đây tròn 50 năm, ngày 30/4/1975, xe tăng quân Giải phóng đã húc đổ cổng Dinh Độc Lập, lá cờ của quân Giải phóng tung bay trong niềm hân hoan của cả dân tộc. Đây là thắng lợi vĩ đại nhất, kết thúc oanh liệt cuộc trường chinh 30 năm chống ngoại xâm gian khổ của dân tộc Việt Nam. Nhân dịp kỉ niệm 50 năm ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Tạp chí Phương Đông xin giới thiệu với bạn đọc một số trích đoạn từ cuốn sách “30-4-1975, sau 50 năm nhìn lại” của tác giả Nguyễn Hữu Thái, nguyên Chủ tịch Tổng hội sinh viên Sài Gòn, một trong những người cắm cờ Giải phóng trên nóc Dinh Độc Lập, đồng thời là người giới thiệu lời tuyên bố đầu hàng của Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Dương Văn Minh tại Đài phát thanh Sài Gòn trưa ngày 30/4/1975.  

Chiếc trực thăng cuối cùng rời sứ quán Mỹ

Vào lúc 4 giờ 40 phút sáng ngày 30/4, chiếc trực thăng CH-46 mang tên Lady Ace 09 do đại úy Gerry chỉ huy đáp xuống nóc sứ quán Mỹ, được lệnh không nhận người di tản. Viên chỉ huy đích thân cầm tờ lệnh của Tổng thống Mỹ mang bí số ‘Tiger-Tiger-Tiger’ chuyển cho Đại sứ Martin chỉ thị cho ông ta rời khỏi Việt Nam ngay. Chỉ vào lúc 4 giờ 58 phút chiếc máy bay mới bốc được Đại sứ Martin tay xách chiếc cặp da, dáng bộ mệt mỏi và thiểu não cùng bộ tham mưu bay ra tàu USS Blueridge ngoài khơi Biển Đông. Martin vội báo cáo ngay về Bộ ngoại giao về cuộc di tản cuối cùng của người Mỹ rời Sài Gòn.

Tờ lịch ngày 30/4/1975 với thủ bút của Đại tướng Văn Tiến Dũng (ảnh do chị Phương Minh ở KS Tân Sơn Nhất cung cấp cho báo Tuổi trẻ)

Giáo sư Herring mô tả sự kiện Đại sứ Martin ra đi như sau :

“Cảnh tượng rút chạy của người Mỹ ở Sài Gòn phải chăng là hình ảnh thu nhỏ của ảo tưởng, tuyệt vọng và bi kịch trong kinh nghiệm Việt Nam. Các viên chức Mỹ mong đợi chính quyền Sài Gòn có thể trụ nổi để tiến hành một giải pháp thương thảo. Đại sứ Martin vẫn kiên trì ủng hộ Nguyễn Văn Thiệu cho đến khi nhìn thấy ông ta không còn ai ở trong nước hậu thuẫn nữa. Ông ta đã gạt ra nhiều âm mưu đảo chính Thiệu để cuối cùng yêu cầu Thiệu từ chức nhằm tránh một cuộc đầu hàng vô điều kiện nhục nhã.

Ông ta đã cố gắng tránh một cuộc tháo chạy tán loạn ở Sài Gòn và hy vọng sắp đặt được một sự ra đi êm đẹp cho người Mỹ, “không muốn tạo ra thêm một điều nhục nhã khác trong lịch sử can dự đau buồn ở Việt Nam” như ông thú nhận về sau. Ông đã trì hoãn việc thực hiện kế hoạch di tản đến phút chót. 

Hoa Kỳ đã đưa được công dân của họ cùng một số người Việt ra khỏi miền Nam Việt Nam. Nhưng phải chăng cuộc rút chạy đó đã diễn ra trong hỗn loạn và đau thương. Cảnh tượng binh lính Mỹ phải sử dụng báng súng đẩy người Việt tuyệt vọng ùa lên máy bay di tản, binh sĩ VNCH bất bình quay súng bắn máy bay Mỹ rút chạy… Phải chăng tất cả đã đánh dấu một giai đoạn bi thảm của 25 năm Hoa Kỳ dính líu vào Việt Nam”. 

Đại sứ Mỹ Martin rời Việt Nam vào lúc 4 giờ sáng ngày 30/4/1975

Tại Nhà Trắng, lúc đó là vào cuối một ngày làm việc căng thẳng theo dõi diễn tiến tình hình ở miền Nam Việt Nam, Tổng thống Ford đã có thể thở dài nhẹ nhõm khi tuyên bố: “Cuộc di tản đã hoàn tất. Hành động này đóng lại một chương trong kinh nghiệm của người Mỹ”!   

Sáng sớm ngày 30/4, viên chỉ huy đội thủy quân lục chiến bảo vệ Sứ quán Mỹ là Thiếu tá James Kean ra đi trên một trong những chiếc trực thăng cuối cùng rời Sứ quán Hoa Kỳ ở Sài Gòn. Ông ta cay đắng nhớ lại: “Tôi đã bật khóc, rõ ràng là do quá hổ thẹn! Làm sao mà Hoa Kỳ lại để cho mình rơi vào tình trạng tồi tệ làm chúng tôi phải cụp đuôi bỏ chạy nhục nhã như thế này ?”

Tuy vậy, Trung sĩ Valdez mới là người lính Mỹ cuối cùng rời Việt Nam vào lúc 7 giờ 53 phút sáng. Chuyến bay cuối cùng dành cho 15 người nay phải nhồi nhét đến 24 người. Họ được lệnh phải vứt bỏ tất cả vật dụng cá nhân, kể cả điện đài cho nhẹ bớt. Máy bay cất cánh hướng ra Biển Đông, anh còn nhìn thấy nhiều đoàn quân xa địch đèn mở sáng choang trên quốc lộ dồn dập tiến về Sài Gòn. Lẻ tẻ vẫn có vài phát đạn bắn về phía họ, có lẽ do các binh lính VNCH bất mãn từ các cao ốc bắn lên. Mặt trời đã ló dạng trên mặt biển báo hiệu một ngày mới, ngày không còn bóng dáng người Mỹ trên đất nước Việt Nam kể từ 25 năm qua. 

Các nhà báo nước ngoài từ sân thượng các khách sạn ở trung tâm thành phố nhìn thấy chiếc trực thăng cuối cùng cất cánh khỏi nóc Sứ quán Mỹ. Họ nhìn thấy còn rất đông người bị bỏ lại, vô vọng nhìn lên bầu trời nay im ắng không còn bóng dáng một chiếc máy bay nào trở lại nữa. Tại các nhà cao tầng được qui định làm các điểm tập kết di tản rải rác trong thành phố cũng còn lố nhố người. 

Khi các nhà báo đến Sứ quán Mỹ thì nhìn thấy cảnh tượng người hôi của ùa vào vơ vét đồ vật vương vãi trên sân, trong tòa nhà. Người bị bỏ lại cũng lên đến số nghìn, không chỉ là người Việt. Vì vẫn còn một số người Mỹ, một linh mục người Đức và trên chục nhân viên sứ quán Đại Hàn (trong đó có cả viên Thiếu tướng Rhee Dai Young, nguyên Phó Tư lệnh lực lượng 5 vạn quân đánh thuê Nam Triều Tiên ở Nam Việt Nam). 

Phóng viên của hãng tin AP Mỹ Peter Arnett đã lượm được tấm bảng đồng tưởng niệm ghi tên những binh lính Mỹ bảo vệ sứ quán hy sinh hồi Tết Mậu Thân khi tòa nhà này bị đặc công Việt Cộng tấn công vào đầu năm 1968. Không người nào trong sứ quán còn lưu ý chuyển tấm bảng đồng đó theo! 

Bỗng có tin đồn, người Mỹ đã gài mìn trong Sứ quán, ai xâm nhập sâu vào vơ vét trong tòa nhà sẽ làm mìn nổ tung. Mọi người lại tháo chạy tán loạn. Sứ quán Mỹ bỗng chốc vắng tanh. 

Chỉ mấy giờ sau đó, xe tăng cách mạng đã có mặt ở Sài Gòn, chạy vượt qua Sứ quán Mỹ nay đã không còn một bóng người và không còn ai buồn chú ý. Tòa nhà hiện đại nhưng kệch cỡm nay đã bị phá bỏ đi có lẽ do chính quyền Mỹ không muốn duy trì mãi một hình ảnh đau buồn về sự thảm bại của mình ở Việt Nam. Vào trưa hôm đó, đường phố Sài Gòn sẽ tràn ngập quân giải phóng.

Công bố bàn giao chính quyền cho Cách mạng

Tại nhiều địa điểm ở nội thành Sài Gòn – Gia Định, từ tối hôm qua các toán đặc công và mũi tiền phương của cách mạng đã tiến chiếm trạm cảnh sát, cô lập và tước khí giới các toán nhân dân tự vệ, bảo vệ các cây cầu và đường vào thành phố. Tại  quận 7, chỉ với một loa phóng thanh và mấy người mà anh em đã chiếm được các cơ quan quận. Cơ sở bí mật của cách mạng ở Ngã tư Bảy Hiền hầu như hoạt động công khai, tích cực hoàn tất việc may cờ và băng giải phóng. Các mũi tấn công khác nhau đang nhanh chóng triển khai tiến gần các mục tiêu được chỉ định.    

Khi quân giải phóng pháo kích dồn dập sân bay Tân Sơn Nhất, Nguyễn Hữu Thái nghĩ rằng cuộc chiến đấu cuối cùng đã bắt đầu. Lần gặp sau cùng, Huỳnh Bá Thành (họa sĩ Ớt hoạt động trong cụm A10, An ninh T4 Giải phóng) gợi ý rằng : “Chỉ có thuyết phục, tác động những người cầm đầu chính quyền Sài Gòn buông súng trên tinh thần hòa hợp hòa giải mới mong tránh được đổ máu và tàn phá”.

Người dân Sài Gòn xuống đường chào đón quân giải phóng, ngày 30/4/1975. Ảnh: AFP

Nhóm sinh viên cùng binh lính, sĩ quan trẻ phản chiến lấy Đại học Phật giáo Vạn Hạnh làm trụ sở đã chuẩn bị sẵn sàng. Dự kiến nếu còn chiến đấu dằng dai thì phải hình thành ngay các “Ủy ban hòa hợp hòa giải” lấy các chùa làm cơ sở. Nghe nói nhiều nhóm vũ trang phản động vẫn toan tính trụ lại chống cự và phía quân giải phóng thì cũng quyết tâm sớm dứt điểm cuộc chiến, phải trả giá cao nếu cần. Ban đầu ai cũng nghĩ xung đột sẽ kéo dài, sớm nhất cũng đến ngày sinh Bác Hồ 19/5 mới ngã ngũ.

Sáng tinh mơ ngày 30/4, khi những chiếc trực thăng Mỹ cuối cùng rời Sài Gòn, Nguyễn Hữu Thái chạy vội lên chùa Ấn Quang gặp Thượng tọa Trí Quang. Anh báo ngay: “Tình hình cấp bách quá rồi, xin Thầy làm sao tác động gấp nhóm ông Minh chủ động tìm cách chấm dứt ngay cuộc chiến để tránh đổ máu và tàn phá Sài Gòn. Các đường dây liên lạc với bên kia nay đã đứt hết rồi, không còn thì giờ đưa giải pháp này nọ nữa đâu”. Ông hiểu ngay và choàng áo sang phòng bên gọi điện thoại. Tôi nghe vị Thượng tọa nói chuyện qua lại một hồi, rồi quay về cho biết: “Thái cứ yên tâm, Thầy không gặp được ông Minh, nhưng đã nói chuyện với ông Mẫu (Thủ tướng nội các mới), chắc chắn  họ sẽ hành động theo hướng này”.

Về phần mình, tướng VNCH Nguyễn Hữu Hạnh nhớ rằng: 

“Vào 6 giờ sáng, Trung tướng Nguyễn Hữu Có và Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh, phụ tá Tổng Tham mưu trưởng đến dinh Hoa Lan để trình bày tình hình quân sự với Tổng thống Dương Văn Minh. Những thông tin khiến tướng Vĩnh Lộc (Tổng Tham mưu trưởng) tái mặt bỏ trốn thì với ông Dương Văn Minh chỉ làm ông trầm ngâm hơn trên nét mặt vốn trầm tư. 

Tướng Hạnh nói: “Tình hình rất nguy ngập, xin Đại tướng quyết định gấp, chúng ta không thể trì hoãn, rất có hại”. 

Ông Minh hỏi ngay: “Bây giờ “toa” muốn gì?”

Tướng Hạnh nghĩ rằng đầu hàng sớm là tốt nhất, nhưng ông chưa vội nói ra, chỉ thúc ông Minh bằng một câu: “Chuyện chính trị Đại tướng giải quyết thế nào là quyền của mình, nhưng về quân sự thì phải giải quyết gấp, tình hình nguy ngập không cho phép chúng ta chần chừ nữa”. Ông Minh suy nghĩ trong chốc lát rồi nói: “Thôi để tôi bàn thêm với ông Huyền và ông Mẫu. Các “toa” ngồi đây đợi”. Nhưng tướng Hạnh đề nghị được đi theo và ông Minh đồng ý. 

8 giờ sáng ngày 30/4/1975, các nhân vật dự kiến trong tân nội các tập trung tại Phủ Thủ tướng nằm ở cuối đại lộ Thống Nhất (Lê Duẩn ngày nay). Một số thành viên của tân Chính phủ đã ngủ đêm tại đây. Khi Tổng thống Minh đến, cuộc họp diễn ra với một số người rất hạn chế, gồm Phó Tổng thống Nguyễn Văn Huyền, Thủ tướng Vũ Văn Mẫu… Các thành viên khác ngồi chờ đợi buổi họp ở phòng bên ngoài. 

Đoàn xe tăng giải phóng ào ạt tiến vào sân dinh Độc Lập trưa 30/4/1975. Ảnh: Borries Gallasch

Lý Quí Chung ghi trong hồi ký của mình: 

“Ông Minh mở đầu buổi họp bằng việc trình bày tình hình quân sự là không còn cứu gỡ nổi. Cũng không nên nghĩ tới một cuộc thương thuyết chính trị với Chính phủ Cách mạng lâm thời và Hà Nội, qua trung gian chính phủ Pháp. Trong khi đó tình hình an ninh của Sài Gòn rất nguy ngập, hỗn loạn và cướp bóc có thể xảy ra bất cứ lúc nào nhưng Chính phủ hoàn toàn không có khả năng kiểm soát. Và ông Minh kết luận: “Để tránh cho người dân Sài Gòn những tai hoạ đã xảy ra như tại Đà Nẵng, mà có thể còn tồi tệ hơn, tôi quyết định trao quyền cho Chính phủ Cách mạng lâm thời”. Phòng họp im lặng, không có ai phản đối, kể cả những vị mới biết được quyết định này.

Trước khi phiên họp kết thúc, ông Minh nói: “Bắt đầu từ giờ phút này sự ràng buộc giữa anh em chúng ta không còn nữa. Mỗi người hoàn toàn tự do quyết định sự lựa chọn của mình: Đi hay ở lại. Tôi xin thông báo cho anh em nào muốn đi: hiện chiếc tàu Việt Nam Thương Tín (VNTT) vẫn còn đậu ở cảng…”.

Bỗng có người vào báo cáo có một khách người Pháp muốn gặp Tổng thống Dương Văn Minh. Lý Quí Chung cùng tướng Minh bước ra. Đó là cựu tướng Pháp Vanussème đã từng thất trận ở cuộc chiến tranh Đông Dương thời thực dân Pháp. Gần đây ông trở qua Việt Nam đóng vai trò cố vấn quân sự cho Chính phủ Thiệu như kiểu chuyên gia chiến tranh du kích người Anh Sir Robert Thompson mang những kinh nghiệm chống cộng ở Mã Lai sang làm cố vấn cho hai anh em Ngô Đình Diệm – Ngô Đình Nhu trong những năm đầu của chế độ đệ nhất cộng hòa! Nhưng Vanussème không được ông Thiệu tin dùng. Ông Minh bắt tay Vanussème và hỏi lý do ông ta muốn gặp ông.

Vanussème cho biết ông muốn hiến kế cho ông Minh để cứu vãn tình hình tuyệt vọng của chế độ Sài Gòn. Theo Vanussème, nên lên tiếng kêu gọi sự can thiệp của một cường quốc, và chỉ cần có một yêu cầu chính thức của chính quyền miền Nam là cường quốc này sẽ can thiệp ngay. Ông Minh cười chua chát: “Tôi cảm ơn thiện chí của ông, nhưng trong đời tôi, tôi đã từng làm tay sai cho Pháp rồi tay sai cho Mỹ, đã quá đủ rồi. Tôi không thể tiếp tục làm tay sai…”. Đứng xớ rớ một lúc, Vanussème biến lúc nào không ai nhớ. 

Lúc này Thái đang có mặt tại chùa Ấn Quang, anh cho biết Thượng tọa Thích Trí Quang muốn nói chuyện trực tiếp với ông Minh. Cuộc nói chuyện kéo dài khoảng hai phút. Sau đó Thượng tọa Trí Quang nói chuyện với Giáo sư Vũ Văn Mẫu. Nội dung hai cuộc điện đàm này của Thượng tọa Thích Trí Quang nhằm thuyết phục Tổng thống Dương Văn Minh đầu hàng. Lý Quí Chung đề nghị nên nói ngay lời đầu hàng. Tướng Minh không đồng ý vì cho rằng hãy còn nhiều đơn vị quân đội VNCH vẫn còn đó, không chịu nghe lệnh và có khả năng sẽ phản ứng điên cuồng.

Ông bàn bạc thêm với Thủ tướng Mẫu, rồi tiến hành ghi âm bản tuyên bố ngưng bắn. Ông Minh làm việc với hai ông Huyền và Mẫu. Họ đã quyết định đơn phương tuyên bố bàn giao chính quyền lại cho Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam (CMLT). Ông Mẫu soạn lời tuyên bố mất khoảng một tiếng đồng hồ. Đến 9 giờ ông Minh đọc vào máy ghi âm.

Được sự đồng ý của những thành viên chính yếu của Chính phủ, ông Minh ra lệnh cho Tổng trưởng thông tin Lý Quí Chung gọi các nhân viên kỹ thuật của đài truyền hình và đài phát thanh đến để thu âm bài tuyên bố. Khoảng 15 phút sau, anh em kỹ thuật viên đến và cuộc thu âm bài tuyên bố giao quyền của Tổng thống Dương Văn Minh bắt đầu, Chỉ thu tiếng chứ không có điều kiện thu hình. Làm đến lần thứ ba mới thu hoàn chỉnh. Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh, phụ tá Tổng Tham mưu trưởng, giờ đây có quyền hành như Tổng Tham mưu trưởng vì Trung tướng Vĩnh Lộc cùng Trung tướng Trần Văn Trung chạy khỏi Sài Gòn bằng tàu hải quân sáng 30 tháng 4. Tướng Hạnh nói với Tổng thống Dương Văn Minh: “Theo tôi, ngoài bản tuyên bố của Tổng thống cho dân chúng, cần có một nhật lệnh của Tổng Tham mưu trưởng ra lệnh trực tiếp cho quân đội không được nổ súng nữa…”. Ông Minh đồng ý và yêu cầu tướng Hạnh thảo luôn nhật lệnh. Tướng Hạnh cầm cuộn băng và bản nhật lệnh đi đến đài. 

Thu băng xong lúc 9g30, nhân viên đài phát thanh cho phát đi tại đài phát thanh ở đường Nguyễn Bỉnh Khiêm. Trong băng, ông Dương Văn Minh nói:

“Đường lối chủ trương của chúng tôi là hòa giải và hòa hợp dân tộc để cứu sinh mạng đồng bào. Tôi tin tưởng sâu xa vào sự hòa giải của người Việt Nam để khỏi thiệt hại xương máu của người Việt Nam. Vì lẽ đó, tôi yêu cầu tất cả anh em chiến sĩ VNCH hãy bình tĩnh, không nổ súng và ở đâu ở đó. Chúng tôi cũng yêu cầu anh em chiến sĩ Chánh phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam (CMLTCHMNVN) ngưng nổ súng. Chúng tôi ở đây chờ gặp Chánh phủ CMLTCHMNVN để cùng nhau thảo luận lễ bàn giao chánh quyền trong một trật tự, tránh đổ máu vô ích của đồng bào”.

Các ông Nguyễn Hữu Hạnh, Dương Văn Minh và Vũ Văn Mẫu (từ trái sang) nói chuyện với đại diện quân giải phóng trưa 30/4/1975. Ảnh: Tư liệu Tuổi Trẻ Online

Ông Minh cũng cho tướng Hạnh tuyên bố ngưng bắn tránh đổ máu. Ông đọc trên đài thế này: 

“Thưa quý vị tư lệnh quân đoàn, quân binh chủng, địa phương quân, nhân dân tự vệ, tôi – Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh, phụ tá Tổng Tham mưu trưởng, thay mặt Trung tướng Vĩnh Lộc, Tổng Tham mưu trưởng vắng mặt, yêu cầu tất cả tướng lĩnh và quân nhân các cấp phải triệt để thi hành lệnh của Tổng thống Việt Nam Cộng hòa về ngưng bắn. Các cấp chỉ huy quân lực VNCH phải sẵn sàng liên lạc với các cấp chỉ huy quân đội của Chánh phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam để thực hiện cuộc ngưng bắn một cách không đổ máu”. 

Khi biết đài chỉ phát đi có một lần, ông Hạnh đã yêu cầu cho phát thanh lại, và đài phát thanh đã sử dụng loại băng tự động để tiếng nói được phát đi liên tục.

Bình luận về lời kêu gọi buông súng này, nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt phát biểu: “Đại tướng Dương Văn Minh nhậm chức ngày 28/4/1975, ngày mà một nhà quân sự như ông có thể đoán được sự thất thủ của Sài Gòn. Nếu ông Minh để cho các tướng dưới quyền ông “tử thủ”, chúng ta vẫn chiến thắng, nhưng Sài Gòn khó mà nguyên vẹn, và còn biết bao sinh mạng và tài sản của người dân mình nữa. Tôi và Thành ủy do anh Mai Chí Thọ phụ trách, sáng 30/4 khi nghe ông Minh kêu gọi binh lính buông súng để chờ bàn giao chính quyền cho cách mạng, đã thở phào nhẹ nhõm. Phải ở chiến trường, và vào đúng giờ phút ấy, mới cảm nhận được tầm quan trọng của quyết định này”.

Cờ Giải phóng trên nóc Dinh Độc Lập 

Nguyễn Hữu Thái và Lý Quí Chung đang loay hoay ở thềm Dinh Độc Lập thì bỗng mọi người cùng hướng nhìn về đại lộ Thống Nhất. Một cảnh tượng hùng tráng diễn ra: một đoàn xe tăng rầm rộ tiến về hướng dinh. Bỗng chốc cửa dinh bị húc đổ, đoàn tăng cày lên thảm cỏ, tiến thẳng đến thềm dinh. 

Người bộ đội chỉ huy chiếc xe tăng 390 húc đổ cổng chính Dinh Độc Lập trưa ngày 30/4/1975 là Trung úy Chính trị viên Vũ Đăng Toàn. Anh nói rằng sau khi húc đổ cổng dinh, xe anh băng qua thảm cỏ chạy đến bậc thềm lên xuống của dinh. Xe dừng, anh nhảy xuống và thấy Đại đội trưởng Bùi Quang Thận từ chiếc xe 843 bị tắt máy ở cổng phụ, cũng đang cầm cờ chạy vào. Cả hai chạy lên thềm dinh trong tư thế sẵn sàng chiến đấu và với một tinh thần “cảnh giác cao độ”. 

4 chiến sỹ Binh đoàn Hương Giang mang cờ tiến thẳng vào Dinh Độc Lập trưa 30/4/1975 (người cầm cờ là chiến sĩ Bùi Quang Thận). Ảnh: Hứa Kiểm/TTXVN

Thận hơi lo khi thấy bên trong lố nhố nhiều người mặc quân phục. Và có lẽ do “cảnh giác cao độ” quá nên anh lao thẳng vào cửa kính, ngã bật ra phía sau nhưng tay vẫn cầm chắc lá cờ. Lúc này, từ trong dinh, một người bận đồ dân sự chạy ra, thân thiện mời hai anh lính tăng giải phóng vào. Đó là ông Nguyễn Văn Diệp (cựu Tổng trưởng tài chính và cũng là một cơ sở giải phóng) dẫn mấy anh em bộ đội xe tăng lên lầu gặp tướng Nguyễn Hữu Hạnh tại cầu thang (lúc bấy giờ tướng Hạnh vẫn còn mặc quân phục). Hạnh nói rằng Tổng thống Dương Văn Minh đang đợi quân cách mạng ở bên trong. 

Nhiều người bên trong nhớ lại rằng họ nghe tiếng chân người vang dội trong sảnh, có cả tiếng khua vũ khí và tiếng đạn lên nòng. Rồi tiếng hô to từ phía đại sảnh: “Mọi người đi ra khỏi phòng ngay”.

Người bước ra khỏi phòng trước tiên là Tổng thống Dương Văn Minh. Đi sát bên ông Minh là Thiếu tá Hoa Hải Đường. Tiếp theo là Thủ tướng Vũ Văn Mẫu. Ông Minh và ông Mẫu đều rất bình tĩnh. Họ vừa bước ra hành lang để đi đến đại sảnh thì ở đầu kia thấy có nhiều bộ đội cầm súng và hô to: “Mọi người giơ tay lên”. Ông Minh, ông Mẫu cùng mọi người đi phía sau đều nhất loạt giơ tay. 

Các chiến sĩ xe tăng Vũ Đăng Toàn và Bùi Quang Thận thoáng chút bối rối trước tình huống này: Không biết phải “xử lý” thế nào với Tổng thống và mấy ông nội các Sài Gòn, bởi nhiệm vụ của những người lính tăng như các anh là chiếm dinh và cắm cờ. Bùi Quang Thận đề nghị Vũ Đăng Toàn ở lại “canh chừng” các thành viên nội các và chờ cấp chỉ huy đến, còn mình phải thực hiện cho được nhiệm vụ cắm cờ trên nóc Dinh Độc Lập. 

Mấy mươi năm sau, nguyên Đại đội trưởng Bùi Quang Thận kể lại:

“Vào chiến dịch, ai cũng hiểu đây là trận quyết chiến cuối cùng, nhưng không ai nghĩ mình là người cắm cờ chiến thắng. Nhìn lên nóc tòa nhà thấy lá cờ ba sọc bay, tôi chỉ nghĩ làm sao hạ lá cờ này càng nhanh càng tốt. Không nghĩ đến những nguy hiểm đang rình rập nơi hang ổ này, cũng không nghĩ tới việc mình chẳng biết đường lên. May mà vừa leo tới chân cầu thang, có mấy người đàn ông (có lẽ là cơ sở nội đô) dắt tôi đi”. 

Thận định lên cắm cờ nhưng rõ ràng là không biết đường. Có lẽ nhìn thấy nhóm sinh viên Nguyễn Hữu Thái và tiến sĩ Huỳnh Văn Tòng tay đeo băng xanh đỏ của lực lượng quần chúng nổi dậy, nên khi Thái đề nghị dẫn đường thì Thận liền đi theo. Không ai rành bố cục bên trong Dinh và cũng chưa biết dùng cách nào để lên nóc Dinh nhanh nhất, nên họ hỏi ai có thể dẫn đường lên nóc Dinh. Tướng Nguyễn Hữu Hạnh nhớ rằng mình đã ra lệnh cho Đại tá Vũ Quang Chiêm, Chánh văn phòng Phủ Tổng thống, người đã ở lâu trong dinh hướng dẫn họ đi. Thái yêu cầu Chiêm dẫn họ đi chiếc thang máy phụ lên nóc Dinh, giúp Thận bẻ gập chiếc cần ăng ten, mới vào lọt được bên trong chiếc thang máy loại nhỏ này.

Đến trước thang máy, Bùi Quang Thận thấy… lạ quá nên nhất quyết không vào. “Lúc đó tôi thấy thang máy giống như… cái hòm – Bùi Quang Thận nhớ lại – Vào đó nó nhốt mình luôn, biết bao giờ mới ra được”. Sau khi nghe Đại tá Chiêm giải thích, Thận mới chịu vào nhưng lại cảnh giác yêu cầu Chiêm vào trước… Cuối cùng thì Bùi Quang Thận, Huỳnh Văn Tòng, Nguyễn Hữu Thái cũng lên được nóc dinh. 

ức ảnh lịch sử cắm cờ trên nóc Dinh Độc Lập ngày 30/4/1975. Ảnh: Francoise Demulder

“Chúng tôi còn trèo xuống một cầu thang gỗ mới ra được chân cột cờ – kiến trúc sư Nguyễn Hữu Thái kể trong báo Tuổi Trẻ – Để treo lá cờ giải phóng lên, phải hạ lá cờ vàng ba sọc xuống. Nhưng lá cờ ba sọc quá lớn, lại được cột chắc chắn nên phải mất khá lâu chúng tôi mới hạ xuống được. Dường như tất cả chúng tôi đều không cầm được nước mắt, Sài Gòn đã được giải phóng, hòa bình được lập lại và đất nước từ nay thống nhất làm một, không gì có thể chia cắt được nữa”. 

Về phía mình, Thận nhớ rằng: “Khi kéo lá cờ lên, ngước nhìn ngọn cờ chiến thắng nửa xanh nửa đỏ tung bay trong nắng gió, nhìn xuống dưới thấy 3 phía xe tăng ta và các đơn vị bộ binh đang áp sát về phía Dinh, chợt trào nước mắt vì niềm hạnh phúc quá lớn. Tôi đã hoàn thành nhiệm vụ một người lính chiến đấu vì Tổ quốc, trên hết tôi được thay mặt tất cả những đồng đội, đồng chí đã ngã xuống, đang cùng tôi chiến đấu, cắm lá cờ chiến thắng báo hiệu giờ phút lịch sử – Hòa bình trên Tổ quốc Việt Nam”. Bùi Quang Thận kéo lá cờ giải phóng xanh đỏ sao vàng lên, sau khi viết và ký tên vào lá cờ: “11g30 ngày 30/4. Thận”.

Thật ngẫu nhiên, vào thời điểm lịch sử ấy trên nóc Dinh Độc Lập, trước kia là Dinh Toàn quyền Pháp, có mặt 3 chàng trai của 3 miền đất nước: anh bộ đội Thận gốc Thái Bình từ đồng bằng sông Hồng, sinh viên Thái sinh ra ở thành phố cảng Đà Nẵng miền Trung và giáo sư Tòng quê Tây Ninh, Nam bộ.  

Quân giải phóng ở Dinh Độc lập ngày 30/4/1945. Ảnh: AP/Yves Billy

Phải chăng khoảnh khắc lịch sử ấy đánh dấu sự cáo chung của 117 năm thống trị của thực dân đế quốc phương Tây và mở ra một thời kỳ mới độc lập thống nhất đất nước Việt Nam. Anh em xúc động không cầm được nước mắt, vừa sung sướng vừa hãnh diện. Vào giây phút này chắc nhân dân cả nước đang reo mừng. Sài Gòn đã được giải phóng, hòa bình được lập lại, dân tộc Việt Nam từ nay trở lại thống nhất. Trong khoảnh khắc đó trong đầu họ như vang lên lời thơ bất hủ của thời Lý Thường Kiệt:

Nam quốc sơn hà Nam đế cư

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư

(Đất nước Nam của vua Nam

Điều đó đã ghi rành rành trong sách trời

Như có quân nghịch tặc nào dám xâm phạm

Chúng nó rồi chỉ chuốc lấy thất bại mà thôi)

Lá cờ đầu tiên kéo lên nóc Dinh Độc Lập đã ngả màu vì khói đạn, bụi đường hành quân và thời gian phôi pha. Lá cờ “màu đỏ của đất, màu xanh của trời, ngôi sao chân lý trên đời” (thơ Tố Hữu) một thời oanh liệt.

Giờ phút căng thẳng tại sảnh Dinh Độc Lập

Cơ sở tình báo giải phóng thuộc Cụm A24 là kỹ sư Tô Văn Cang (Việt kiều Pháp về công tác ở Bưu điện Sài Gòn, quen thân với nhiều người trong nội các Dương Văn Minh) đã ghi lại khoảnh khắc căng thẳng đó ở Dinh Độc Lập: 

Khi ông vội vã vào Dinh Độc Lập thì nhìn thấy một số bộ đội ta đang vây nhóm Dương Văn Minh – Vũ Văn Mẫu. Một anh bộ đội đội nón cối có huy hiệu sao vàng (sau này mới biết đó là Đại úy Phạm Xuân Thệ, Trung đoàn phó Trung đoàn bộ binh 66) súng lên đạn cầm tay lăm lăm, cùng 2 trợ lý từ phía cầu thang giữa chạy lại: “Minh – Huyền – Mẫu đâu, Minh đây hả, lôi cổ nó ra đây!” vừa la vừa định nắm cổ áo ông Minh. Ông Cang đứng cạnh, lấy tay gạt phắt, đẩy anh bộ đội ra, và nói với họ: “Yêu cầu đồng chí giữ kỷ luật, giữ trật tự. Xin mời vào phòng và đóng cửa lại”. Tướng Nguyễn Hữu Hạnh nói ông Minh đã tuyên bố bàn giao chính quyền. Người bộ đội đẩy ra và la lớn: “Không có bàn giao gì hết. Hãy xếp hàng hai lại, nhanh lên!” Cang giơ tay xin nói thì cũng bị ngăn lại và la: “Xếp hàng lại!” 

Cang vẫn mạnh dạn: “Không, tôi là người của Mặt trận, thuộc đoàn 22, của Tướng Ba Trần, bộ đội tiền phương”. Người bộ đội trợn mắt: “Anh muốn gì nào?”, thì Cang lập tức tuôn ra: “Tôi chỉ muốn bộ đội áp dụng đúng chính sách đối với tù binh hàng binh”. Anh ta hỏi gặng lại: “Chính sách thế nào? Chúng tôi được lệnh tấn công Dinh Độc Lập và bắt làm tù binh tất cả. Xếp hàng lại ngay!” 

Cang tranh thủ nói: “Tôi biết các đồng chí bận hành quân không nghe lời tuyên bố đầu hàng của Tướng Minh lúc 9 giờ rưỡi sáng, tôi xin bảo đảm là có tuyên bố rồi, mà từ lúc vào đây cũng không có ai chống cự, tất cả đều sẵn sàng đón bộ đội vào, nên tôi yêu cầu áp dụng đối với hàng binh, chớ không phải tù binh”. Được trớn Cang nói luôn: “Đối với tù binh đang cầm súng, chỉ bắt nhốt và đối xử nhân đạo, tức là cho ăn uống. Còn với hàng binh thì thì phải đối xử tử tế”. 

Sự việc này sau thấy báo Quân đội Nhân dân đăng ảnh lúc 11 giờ trưa tại Dinh Độc Lập và phản ảnh là đồng chí Lê Đức Thọ có khen việc giải quyết đối với ngụy quân ngụy quyền rất tốt. 

Quân giải phóng vào Sài Gòn ngày 30/4/1975. Ảnh: Catherine Leroy

Hai bên còn đôi co qua lại, ngay lúc đó ban chỉ huy lữ đoàn xe tăng cũng kịp đến. Chỉ huy Nguyễn Tất Tài lệnh cho các chiếc tăng còn lại vây quanh Dinh đề phòng địch phản kích. Chính ủy Bùi Văn Tùng và Chủ nhiệm chính trị Lê Minh xuống xe thiết giáp bước vội vào sảnh Dinh. Đại đội trưởng đơn vị đặc công Phạm Duy Đô chạy đến: “Báo cáo, anh em đang giữ Dương Văn Minh và cả nội các ngụy ngồi trong đó. Mời thủ trưởng đến giải quyết”. 

Chính uỷ Tùng nhớ lại: Suốt một đời trận mạc tưởng đã quen với mọi đổi thay, những biến cố to tát, vậy mà lúc đó ông đã sững sờ. Chân đi dép cao su đang bước lên nền Dinh lát đá cẩm thạch bóng loáng, ông bỗng sững lại giây lát, hơi choáng váng. Rồi những lời dặn dò của Tư lệnh quân đoàn Nguyễn Hữu An khi còn ở Rừng Lá giúp ông bình tâm lại. Tướng An giao mọi việc trong Dinh Độc Lập phải do ông trách nhiệm giải quyết. Ông bèn đường hoàng bước vào phòng lớn, nhìn thấy một nhóm người có vẻ buồn bã, cam chịu đang ngồi im lặng ở giữa căn phòng bài trí cực kỳ sang trọng. 

Sự hoang mang chỉ chấm dứt khi người chỉ huy của quân giải phóng, Chính uỷ Bùi Văn Tùng xuất hiện. Thấy các cấp chỉ huy bộ đội vào, người cao lớn, mang kính trắng là Tướng Minh đứng lên:

– Thưa ông, chúng tôi đang chờ các ông vào để bàn giao.

Chính ủy Tùng cố gắng nén sự khó chịu trước hai tiếng “bàn giao”, cố không to tiếng:

– Các ông chẳng còn gì để mà giao.

– Thưa ông…

– Các ông chỉ có đầu hàng vô điều kiện ! 

Chính ủy Tùng nghĩ ngay đến việc phải buộc họ tuyên bố đầu hàng sớm để đỡ đổ máu. Sài Gòn vẫn còn vang tiếng súng, miền Tây Nam Bộ và các hải đảo vẫn chưa được giải phóng. Ông bèn quay sang Tướng Hạnh hỏi: “Đường dây đến đài phát thanh còn hoạt động không?” Hạnh trả lời là không sử dụng được nữa. Chính ủy Tùng nói: “Ngay bây giờ, yêu cầu ông Minh đến đài phát thanh công bố điều đó trước nhân dân, trước thế giới”. 

Ông Cang nói mình cũng đề nghị Tướng Minh nên tuyên bố lại. Lúc đầu ông Minh không chịu, nói là đã có tuyên bố xong rồi. Cang cố gắng khuyên: “Lúc nãy là tuyên bố đầu hàng mà chưa tiếp xúc với bộ đội giải phóng, còn bây giờ thì đã gặp nhau rồi, nên tuyên bố rõ như vậy”. 

Tổng thống VNCH Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng trước đại diện chính quyền cách mạng tại Dinh Độc lập, trước khi di chuyển sang đài phát thanh để tuyên bố đầu hàng trên sóng phát thanh. Ảnh tư liệu TTXVN

Dương Văn Minh nhẫn nhục im lặng. Sau đó, ông quay sang trao đổi nho nhỏ với người đứng cạnh là Tướng Hạnh. Người này hướng về Chính ủy Tùng: “Thưa ông, Đại tướng ra ngoài lúc này sợ phe đối lập ám hại, vì họ biết ông Minh đi tuyên bố đầu hàng”. 

Chính ủy Tùng nói ngay: “Đi với tôi, ông Minh khỏi lo. Quân giải phóng đã hoàn toàn chiếm lĩnh thành phố, chúng tôi bảo đảm an toàn”. Ông Minh đồng ý.

Tiếng nói Cách mạng trên Đài phát thanh Sài Gòn  

Nhóm sinh viên tranh đấu Sài Gòn từng trấn giữ Đài phát thanh viết lại trên báo Thanh Niên: 

“Sáng sớm 30-4, các sinh viên Hà Thúc Huy và Nguyễn Tân, Huỳnh Ngọc Chênh cùng một nhóm anh em tập trung ở Đại học Vạn Hạnh. Họ đã gặp Giáo sư Huỳnh Văn Tòng và Nguyễn Hữu Thái, một lãnh tụ sinh viên tranh đấu và được phân công xuống trường Đại học Nông lâm súc đối diện đài truyền hình Sài Gòn để tiếp thu đài. Thấy nhiều người hôi của lục lọi phá phách, họ phân công một nửa số sinh viên ở lại canh giữ. Huy dẫn nhóm còn lại ra cổng Hồng Thập tự (nay là Nguyễn Thị Minh Khai) để chuẩn bị sang tiếp thu đài phát thanh. Đang lúc đó thì xe tăng giải phóng ầm ầm kéo vào, theo đường Hồng Thập Tự tiến vào Dinh Độc Lập. Họ mừng rỡ chạy theo xe tăng để hoan hô. Đến ngã tư Đinh Tiên Hoàng – Hồng Thập Tự (Nguyễn Thị Minh Khai ngày nay) thì gặp một xe tải quân sự chở đầy bộ đội dừng lại hỏi đường đến đài phát thanh. Họ nhảy lên xe quân sự này để dẫn đường. Khi đến nơi, đài bỏ trống. Đơn vị bộ đội triển khai canh giữ chung quanh. Họ ùa vào đài để tìm cách mở máy nhưng thất bại vì không ai rành kỹ thuật. Và không ai biết mình sẽ phát đi lời gì…”.

Tại Dinh Độc Lập, các ông Dương Văn Minh, Vũ Văn Mẫu và ông Bùi Văn Tùng rời khỏi phòng để sang đài phát thanh. Họ bước xuống cầu thang ra bãi cỏ, đến ngang chỗ vòi phun nước, ông Dương Văn Minh và ông Vũ Văn Mẫu leo lên một chiếc xe jeep được bảo vệ bởi hai chiến sĩ giải phóng. Đại úy Phạm Xuân Thệ hướng dẫn xe này. Chính ủy Bùi Văn Tùng và một người lính khác lên chiếc xe thứ hai. Nhà báo Tây Đức Von Borries Gallasch với nào các máy ảnh, ghi hình, ghi âm đeo lỉnh kỉnh quanh người có mặt ở đó, xin chính ủy Tùng cho đi theo và hứa sẽ viết bài có lợi cho cách mạng. Ông gật đầu đồng ý. Nhà báo Hà Huy Đỉnh làm thông dịch cho Gallasch với bộ râu dài cũng leo lên chiếc xe jeep này và họ lái đi. Nhà báo Đức hỏi xin nói tiếng Pháp có được không vì chắc rằng những người ở lớp tuổi Chính ủy Tùng (năm đó ông Tùng 45 tuổi) còn nói được tiếng Pháp. Chính Tùng trả lời: “Peut-être (có thể)”.

Chính ủy Bùi Văn Tùng và nhà báo Tây Đức Gallasch tại Dinh Độc Lập trưa 30/4/1975. Ảnh: Hà Huy Đỉnh

Như vậy là cả Nguyễn Hữu Thái, Huỳnh Văn Tòng từ nóc Dinh cắm cờ xuống đã cùng các nhà báo Gallasch và Hà Huy Đỉnh theo xe Chính ủy Tùng ra đài phát thanh.

Chỉ có hai chiếc xe này chạy giữa thành phố lúc ấy – một thành phố đã từng sôi sục mà nay sự sợ hãi bỗng nhiên được làm dịu đi – qua Tòa Đại sứ Mỹ trống hoác, đến đài phát thanh nằm trên đường Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Một sinh viên ghi tiếp diễn tiến ở đài phát thanh Sài Gòn: “Anh em sinh viên đã cùng bộ đội chiếm giữ đài phát thanh rồi nhưng không vận hành được cũng như không biết phát đi nội dung gì. Sinh viên và bộ đội đang loay hoay chưa biết làm gì thì bỗng dưng có hai chiếc xe jeep chở đầy người chạy vào khuôn viên đài phát thanh. Rất nhiều bộ đội cùng dân sự bước xuống và họ nhận ra ngay hai ông Dương Văn Minh và Vũ Văn Mẫu, Tổng thống và Thủ tướng mới nhậm chức của chính quyền Sài Gòn. Một trong hai người chỉ huy yêu cầu sinh viên tìm cách cho ông Dương Văn Minh đọc lời đầu hàng trên đài phát thanh. Ông nói xong, kéo cả đoàn người mới đến lên lầu một, vào phòng khách theo hướng dẫn của sinh viên. Trong lúc đó, một sinh viên chạy đi tìm nhân viên đài. Tại phòng khách, ngoài hai ông Minh – Mẫu, hai chỉ huy bộ đội (sau này họ mới biết là Chính ủy Bùi Văn Tùng và Đại úy Phạm Xuân Thệ) và vài anh bộ đội còn có hai người dân sự nữa là anh Nguyễn Hữu Thái và một nhà báo nước ngoài”. 

Nhà báo Đức Gallasch thuật lại quang cảnh đó: 

“Họ đi vào phòng thu nhỏ trên lầu một. Nhân viên cũ trong đài đã lấy chân dung của Thiệu từ trên tường xuống và ném qua cửa sổ ra sân. Mọi người ngồi bất động một lát. Ông Mẫu quạt mặt mình bằng một quyển sách. Tổng thống Dương Văn Minh và chính ủy xe tăng Bùi Văn Tùng ngồi trên hai chiếc ghế và nhà báo Đức ngồi giữa họ tại một chiếc bàn nhỏ. 

Ông Mẫu trông có vẻ hài lòng. Ông tỏ ra như thể chiến thắng này là chiến thắng của ông. Người thành lập và phát ngôn cho lực lượng thứ ba, mà mới tuần trước đã giải thích cho nhà báo Gallasch tại sao nhóm trung lập của ông ấy sẽ là một nhân tố cần thiết cho bất cứ một tương lai chính trị nào ở Nam Việt Nam, nay tuyên bố rằng: “Không còn lực lượng thứ nhất nữa nên chúng ta không còn cần đến lực lượng thứ ba, hòa giải dân tộc diễn ra sớm hơn dự định. Bây giờ dù muốn hay không chúng ta cùng làm việc cho nhân dân ta”. “Không phân biệt chính kiến?”. “Đúng, chúng ta có khác nhau về quan điểm nhưng những điểm khác nhau đó chỉ hướng chúng ta đi đến một mục đích chung”.

Họ mượn máy thu băng của nhà báo Đức. Pin máy cát-xét quá yếu, anh em sinh viên chạy đi tìm pin thay thế. Họ cũng đi tìm ngay kỹ thuật viên cho đài phát sóng lại. Tất cả đều nhờ anh em sinh viên lo liệu. Chính ủy Tùng xác nhận: “Không có các cậu sinh viên giúp phát đi lời đầu hàng của tướng Dương Văn Minh thì thật là gay go”. Họ tìm được anh Trần Văn Bảng kỹ thuật viên phát sóng trú ngụ ngay gần đấy. Bảng còn lên tiếng gọi thêm mấy người khác đến giúp vận hành đài. 

Chính ủy Tùng đã rất khó viết. Ông ngồi bất động trong khi thảo ra được một vài từ rồi đến từ nữa, rồi lại thay thế bằng những từ khác. Sau 30 năm chiến đấu cho một mục đích, thật là khó để biết phải viết như thế nào.

Về sau, Chính ủy Tùng kể rằng ông rất lúng túng không biết làm sao thảo một văn kiện đầu hàng. Từ bé đi học, lớn lên là anh bộ đội Cụ Hồ đã mấy chục năm, chưa có ai chỉ vẽ cho ông cách soạn thảo văn bản đầu hàng cho đối phương cả. Mặt khác ông cũng chưa kịp xin ý kiến cấp trên. Viết sao đây?… A phải rồi, với cách mạng chỉ có hai vấn đề cơ bản nhất: chính quyền và quân đội. Khi mất chính quyền thì quân đội không còn. Và ngược lại, không có quân đội thì thì chính quyền không thể tồn tại. Vậy thì…  

Sẵn tập giấy pơ-luya trên bàn, suy nghĩ mấy phút, ông viết lời đầu hàng của Tướng Minh. Ông Minh đề nghị thay vì “Tổng thống” xin dùng chữ “Đại tướng”, dân chúng có cảm tình hơn. Chính uỷ Tùng  nghĩ rằng Tướng Minh phải đầu hàng ở cương vị Tổng thống, vì dẫu sao ông cũng ở cương vị này 3 ngày rồi, mới ra lệnh được cho cả dân sự lẫn quân sự. 

Nghe lời phân tích có lý lẽ, Tướng Minh gật đầu: “Dạ, tôi xin nghe các ông”. 

Chính ủy Tùng suy nghĩ tiếp: có người đầu hàng thì cũng phải có người chấp nhận đầu hàng, nếu không, có thể nhiều người lầm tưởng ông Minh có thiện chí. Và ông thảo luôn lời chấp nhận đầu hàng.     

Chuẩn bị ghi âm lời tuyên bố đầu hàng của Tướng Dương Văn Minh (tác giả Nguyễn Hữu Thái cầm tập giấy, thứ 2 từ phải). Ảnh chụp của nhà báo Kỳ Nhân

Như vậy là loay hoay khá lâu, đài phát thanh Sài Gòn mới vận hành được và phát đi tiếng nói Cách mạng đầu tiên, vào lúc trên 2 giờ chiều (giờ Sài Gòn). Đài phát thanh Sài Gòn phát đi lời đầu hàng của Tướng Dương Văn Minh. Chính ủy Bùi Văn Tùng nhìn đồng hồ, lúc này là 1 giờ 20 phút chiều (giờ Hà Nội, sớm hơn giờ Sài Gòn vào thời đó một giờ).

Tôi (Nguyễn Hữu Thái) nói lời mở đầu :

“Chúng tôi là những người đại diện cho Ủy ban nhân dân cách mạng Sài Gòn – Chợ Lớn – Gia Định. Chúng tôi là những người đầu tiên tới Dinh Độc Lập trước 12 giờ và đã cùng anh em quân đội giải phóng cắm cờ trên Dinh Độc Lập. Chúng tôi là giáo sư Huỳnh Văn Tòng và cựu Chủ tịch Tổng hội sinh viên Sài Gòn Nguyễn Hữu Thái. Đời sống bình thường đã trở lại Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh, thành phố mà Bác Hồ đã mong đợi, nay đã được giải phóng. Xin giới thiệu lời kêu gọi của ông Dương Văn Minh và Vũ Văn Mẫu của chính quyền Sài Gòn về vấn đề đầu hàng ở thành phố này”.

Lời của Tổng thống Dương Văn Minh: “Tôi, Đại tướng Dương Văn Minh, Tổng thống chính quyền Sài Gòn, kêu gọi Quân lực Việt Nam Cộng hòa hạ vũ khí đầu hàng không điều kiện quân giải phóng miền Nam Việt Nam. Tôi tuyên bố chính quyền Sài Gòn từ trung ương đến địa phương phải giải tán hoàn toàn. Từ trung ương đến địa phương trao lại cho chính phủ Cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam”. 

Lời chấp nhận đầu hàng của chính ủy Bùi Văn Tùng: “Chúng tôi đại diện lực lượng quân giải phóng miền Nam Việt Nam long trọng tuyên bố thành phố Sài Gòn đã được giải phóng hoàn toàn, chấp nhận sự đầu hàng không điều kiện của Tướng Dương Văn Minh, Tổng thống chính quyền Sài Gòn”. 

Giáo sư Vũ Văn Mẫu phát biểu: “Trong tinh thần hòa giải và hòa hợp dân tộc, tôi – Giáo sư Vũ Văn Mẫu, Thủ tướng, kêu gọi tất cả các tầng lớp đồng bào vui vẻ chào mừng ngày hòa bình của dân tộc và trở lại sinh hoạt bình thường. Các nhân viên của các cơ quan hành chánh quay trở về vị trí cũ theo sự hướng dẫn của chính quyền cách mạng”. 

Và tôi tiếp tục nói: “…Quân Giải phóng đã tiến vào Dinh Độc Lập và đã làm chủ hoàn toàn các điểm chốt quân sự cũng như dân sự của vùng Sài Gòn – Chợ Lớn – Gia Định”. 

Phải chăng những khoảnh khắc, những tuyên bố đó đã chấn động lòng người, làm nước mắt trào ra từ nhiều đường rừng, mặt trận và cả ở miền Bắc nước ta. Người ta mừng rỡ, hồi hộp và lắng nghe từ xa. 

Xong việc, hai chỉ huy bộ đội đưa đoàn Tướng Minh về lại Dinh Độc Lập. Chính ủy Bùi Văn Tùng đã nói những gì với Gallasch, anh không hiểu. Hà Huy Đỉnh dịch lại. Anh đã được ông cảm ơn về sự giúp đỡ và cho phép anh cùng ông về lại Dinh Độc Lập trên chiếc xe jeep.

Chính ủy Bùi Văn Tùng tuy đã thực hiện được một công tác cấp bách và cần thiết phát đi được lời đầu hàng của Tướng Minh, nhưng ông nói rằng mình vẫn bị cấp trên rầy la cho đó là một việc làm mạo hiểm. Nếu có mệnh hệ nào cho tướng Minh thì rất khó ăn nói cho phía cách mạng đối với dư luận trong và ngoài nước. 

Nguyễn Hữu Thái đích thân đứng ra điều hành buổi phát thanh ấy, đọc thêm bảng công bố chính sách của Cách mạng đối với vùng mới giải phóng, mượn của một chính trị viên. Thái và Tòng cố tình xưng tên tuổi mình là nhằm tạo tâm lý trấn an nhân dân Sài Gòn. Gần đây, nhân dân phía Nam từng bị guồng máy tâm lý chiến của Mỹ và Sài Gòn ra rả tung tin thất thiệt, mô tả nào cảnh tắm máu khi bộ đội đến miền Trung làm dân Sài Gòn sợ điếng hồn. Mọi người thực sự đang kinh hoàng, chỉ mong tìm đường tháo chạy thoát thân với bất cứ giá nào! Hy vọng khi nghe được tên tuổi Thái, Tòng, họ sẽ nghĩ: “À, nếu mấy tên tư sản kiểu như Tòng, Thái mà còn đó thì chắc cũng không đến nỗi nào!”. Về sau nghe nói có nhiều người lấy tàu chạy ra biển xa đã quay lại và bị bắt đi học tập hoặc bị giam giữ đã trách cứ Thái, Tòng lừa gạt họ! 

“Nối vòng tay lớn” 

Nhóm sinh viên chủ động tự biên tự diễn chương trình phát thanh, chủ yếu làm sao đưa ra được lời tuyên bố đầu hàng của Tướng Minh, thông báo chính sách của chính quyền cách mạng lâm thời về vùng mới giải phóng và trấn an dư luận dân chúng Sài Gòn, vùng Đồng bằng sông Cửu Long, các hải đảo. Xen kẽ vào các lời ghi âm sẵn phát đi phát lại nêu trên, họ tranh thủ kêu gọi đại diện đồng bào các giới đến lên tiếng trên làn sóng phát thanh. Các anh giáo sư Huỳnh Văn Tòng, nhà báo Kỳ Nhân, nghệ sĩ Nguyễn Đức… lần lượt lên tiếng kêu gọi giới mình tích cực tiếp tay với các tổ chức cách mạng tham gia vào việc ổn định tình hình Sài Gòn. 

Trịnh Công Sơn (trái) và tác giả Nguyễn Hữu Thái. Ảnh: Nhân vật cung cấp

Thấy trong đám đông ùa đến đài có nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, sinh viên đưa anh vào và tất cả cùng anh hát vang bài “Nối vòng tay lớn”. Băng ghi âm mới phát hiện gần đây ở Mỹ ghi rõ: Sau lời giới thiệu của Thái, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn phát biểu chào mừng ngày độc lập và thống nhất:

“Tôi, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn rất vui mừng và cảm động gặp và nói chuyện với tất cả các anh em văn nghệ sĩ ở miền nam Việt Nam này. Hôm nay là cái ngày mơ ước của tất cả chúng ta, đó là ngày mà chúng ta giải phóng hoàn toàn tất cả đất nước Việt Nam này. Cũng như những điều mơ ước của các bạn bấy lâu là độc lập, tự do và thống nhất thì hôm nay chúng ta đã đạt được tất cả những kết quả đó.

Tôi yêu cầu các văn nghệ sĩ miền nam Việt Nam (không rõ) hợp tác chặt chẽ với Chính phủ Cách mạng Lâm thời miền Nam Việt Nam. Những kẻ đã ra đi chúng ta xem như là đã phản bội đất nước.

Chúng ta là người Việt Nam. Đất nước này đất nước Việt Nam. Chúng ta ở trên đất nước chúng ta.

Chính phủ Cách mạng Lâm thời sẽ đến đây với thái độ hoà giải tốt đẹp. Các bạn không có lí do gì sợ hãi để phải ra đi cả.

Đây là cơ hội đẹp đẽ và duy nhất để đất nước Việt Nam thống nhất và độc lập. Thống nhất và độc lập là những điều chúng ta mơ ước từ mấy chục năm nay.

Tôi xin tất cả các bạn, thân hữu cũng như những người chưa quen với tôi, xin ở lại và chúng ta kết hợp chặt chẽ với Ủy ban Cách mạng Lâm thời để góp tiếng nói xây dựng đất miền Nam Việt Nam này.

(Không rõ) Gặp tất cả anh em ở trong Ủy ban Cách mạng Lâm thời. Hiện tại chúng tôi đang ở tại đài phát thanh Sài Gòn và tôi mong các bạn chuẩn bị sẵn sàng để đến đây góp tiếng nói, lên tiếng để tất cả mọi người đều yên tâm. Và tôi xin tất cả các anh em sinh viên học sinh của miền Nam Việt Nam này hãy yên ổn kết hợp lại với nhau, khóm phường đều kết hợp chặt chẽ chuẩn bị để đón chờ Ủy ban Cách mạng Lâm thời đến.

Xin chấm dứt. Và tôi xin hát một bài. Hiện tại ở trên đài thì không có đàn ghi ta. Tôi xin hát lại cái bài “Nối vòng tay lớn”. Hôm nay thật sự cái vòng tay lớn đã được nối kết…

Rừng núi dang tay nối lại biển xa

Ta đi vòng tay lớn mãi để nối sơn hà…”.

Tất cả chúng tôi cùng anh hát vang bài “Nối vòng tay lớn”. Không có đàn trống, anh em vỗ tay, khỏ nhịp lên bàn cùng nhau hát vang.

“Bài hát đã có tác động làm chùng tay súng. Một ngày, một giờ mà sinh mệnh của hàng triệu con người nằm trên đường tơ kẽ tóc, một sự kiện như thế thật quá trọng đại!” Đó là cảm giác ghi lại của anh bộ đội Giải phóng Nguyễn Văn Thọ khi tiến vào Sài Gòn. 

Anh viết tiếp: “Mặt đất bao la…anh em ta về… gặp nhau mừng như bão cát quay cuồng trời rộng…”. Lời ca không phải là tiếng thách thức tử thủ. Lời ca không phải là tiếng bể máu như kết cục thường của chiến cuộc, lời ca khi ấy làm chùng xuống không khí thù hận và hằn học. Chúng tôi tiến vào Sài Gòn… Chiến tranh nào bao giờ chẳng có mặt trái, nhưng tiếng hát kia, bản nhạc ấy, mở ra cho cả hai bên nghe như một liều thuốc vô hình đã làm chùng xuống một thời khắc dễ nổi cáu và nổi đóa.”  

Thông cáo số 1 của Bộ tư lệnh Quân Giải phóng 

Nguyễn Hữu Thái không ở lại đài đến cuối phần phát thanh vì anh Lê Công Giàu, cán bộ Thành đoàn của Mặt trận Giải phóng xuống mời tôi lên gặp Ban chỉ huy tiếp quản Sài Gòn đang đóng quân ở trường Pétrus Ký (Lê Hồng Phong ngày nay). Họ muốn gặp tôi bàn bạc kế hoạch tập hợp thanh niên sinh viên học sinh Sài Gòn vào sáng ngày mai 1/5. Tôi quen mặt hầu hết các cán bộ Đoàn đang có mặt ở đó nguyên là học sinh sinh viên Sài Gòn, nay rắn rỏi trong quân phục quân giải phóng. Những người đã cùng tôi xuống đường đấu tranh từ 10 năm qua. 

Tôi được giới thiệu gặp một người lớn tuổi, cao to, nét mặt rắn rỏi, giọng nói còn sang sảng là ông Mai Chí Thọ, một nhân vật huyền thoại lãnh đạo cuộc chiến đấu quanh vùng Sài Gòn – Gia Định từ thời kháng Pháp đến chống Mỹ. Ông khen ngợi việc sử dụng đài phát thanh phát đi tiếng nói Cách mạng, chỉ tiếc không có được nhiều tiếng nói tiêu biểu hơn của bên lao động như ông Chủ tịch Nghiệp đoàn tiến bộ Lê Văn Thốt chẳng hạn. Ngày mai phải làm sao quy tụ thật đông đảo thanh niên học sinh sinh viên đến trụ sở 4 Duy Tân. Cả đêm 30/4 đó chúng tôi đâu có ngủ yên. Không phải vì những thao thức về thân phận, toan tính đối phó với kẻ thù mà suy nghĩ về một ngày mai từ đây phải tươi sáng vì rõ ràng là từ nay ta đã thực sự làm chủ vận mệnh mình.

Đến chiều tối sinh viên mới giao được đài lại cho bộ phận phát thanh Giải phóng vừa về đến Sài Gòn. 

Quân giải phóng chiếm Tống nha Cảnh sát Quốc gia VNCH ngày 30/4/1975. Ảnh tư liệu
Biệt động giải phóng có mặt khắp các đường phố Sài Gòn. Ảnh trong sách “Giai phong! The fall and liberation of Saigon” (1977) của Tiziano Terzani

Cánh quân cách mạng phía Tây tiến chiếm Tân Sơn Nhất và Bộ Tổng tham mưu VNCH. Họ chựng lại vì gặp sự kháng cự quyết liệt từ căn cứ quân dù ở Ngã tư Bảy Hiền. Bộ đội mất 5 xe tăng T-54 và có gần 200 chiến sĩ thương vong. Một xe tăng tiến vào mở toang cửa nhà tù Chí Hòa, trả tự do cho cả 7.000 tù nhân, không phân biệt là thường phạm hay chính trị. Cánh quân phía Nam từ Chợ Lớn kéo vào, ưu tiên trực chỉ tiến chiếm Tổng nha Cảnh sát Quốc gia.

Chiều 30/4/1975, nhiều cánh quân lần lượt kéo đến. Chuẩn tướng VNCH Nguyễn Hữu Hạnh cảm thấy thanh thản và nhẹ lòng khi đã làm xong nhiệm vụ mà Ban binh vận Trung ương Cục đã giao. Ông đã góp phần nhỏ bé của mình cho một Sài Gòn còn nguyên vẹn, cho một nước Việt Nam thống nhất, hòa bình. Ông bỗng nhớ đến những ngày hôm qua của đời mình: từ một sĩ quan chống Cộng trở thành cơ sở của cách mạng. 

Ông Vũ Đăng Toàn, người chỉ huy chiếc xe tăng 390 húc đổ cánh cổng Dinh Độc Lập ngày 30/4/1975 (trái) và ông Nguyễn Hữu Thái trao đổi với Tạp chí Phương Đông, ngày 03/4/2025. Ảnh: TCPĐ

Tại Dinh Độc Lập, nhóm Tướng Minh nghe Đại tá Sáu Trí (Nguyễn Văn Khiêm, Đoàn 22 tình báo của cách mạng) cùng nhóm hoạt động cách mạng nội thành Tô Văn Cang vào nói chuyện, anh em đã an tâm hơn. Nhóm Sáu Trí xuống dưới hầm họp chung với nhiều vị tướng tá cách mạng như Nguyễn Hữu An, Nam Long… Khi nhận định tình hình còn rất phức tạp, lộn xộn, các anh cùng bàn là nên thảo một thông báo để trấn an quân đội và dân chúng. Ý kiến góp chung, nhưng các anh giao cho ông Cang chấp bút ghi lại, rồi các anh giao cho họ chạy ra đài phát thanh. Tại đài, quần chúng tranh nhau lên tiếng thật đông, phải khó nhọc lắm xe các ông mới lọt vô được. Rồi họ lên lầu để cho ông Cang đọc chậm và rõ bảng “Thông báo số 1”, ông Giàu đi theo đọc lại lần nữa, sau đó dặn cứ 5 phút thì lặp lại một lần.

Nội dung Thông cáo số 1 của Bộ tư lệnh Quân Giải phóng Sài Gòn – Chợ Lớn – Gia Định như sau:

Quân Giải phóng đã chiếm Dinh Độc Lập và làm chủ tình hình tất cả Sài Gòn lúc 12 giờ hiện nay, ngày 30/4/1975. Bắt đầu từ giờ phút này, yêu cầu tất cả nhân dân thi hành mệnh lệnh của Bộ Tư lệnh Quân Giải phóng: – Lệnh giới nghiêm bắt đầu từ 18 giờ đến 6 giờ sáng. – Tất cả quân đội Sài Gòn, nhân dân tự vệ, cảnh sát của ngụy quyền Sài Gòn phải đến trình diện nộp vũ khí tại các Ủy ban Quân quản các Quận. – Anh chị em công nhân phải giữ gìn bảo vệ các xí nghiệp nhà máy.  – Công chức các cấp trong lãnh vực điện, nước, viễn thông, vệ sinh công cộng… phải tiếp tục điều hành và tuyệt đối không được hủy hoại tài sản Nhà nước. – Bộ Tư lệnh Giải phóng sẽ nghiêm trị hành động trộm cướp, gây xáo trộn, làm mất trật tự, nghiêm cấm gây tiếng nổ, bắn súng bừa bãi gây hoang mang trong dân chúng. Sài Gòn, ngày 30/4/1975, Bộ Tư lệnh Quân Giải phóng Sài Gòn – Chợ Lớn – Gia Định.
Blog tư liệu Tags:1975, Chiến tranh Việt Nam, Vietnam War

Post navigation

Previous Post: Tháng 4 năm 1975 đầy ám ảnh qua hồi ức của nhân viên CIA
Next Post: 50 năm sau khi Sài Gòn thất thủ: Hồi tưởng của Nayan Chanda

More Related Articles

Chuyến thăm Hà Nội Xuất bản
Bà Trần Lệ Xuân và vấn đề nữ quyền ở miền Nam Việt Nam Blog tư liệu
Nước Mỹ và ám ảnh Việt Nam Blog tư liệu
Chẳng có chuông nào rung cho hòa bình Blog tư liệu
Cuộc chiến đầu tiên trên truyền hình Blog tư liệu
Sự sụp đổ của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu qua hồi ký Trần Văn Đôn Blog tư liệu

Leave a Reply Cancel reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

  • Tạp chí Phương Đông Official Channel
  • Thư viện Nguyễn Văn Hưởng Fanpage
Tạp chí Phương Đông số tháng 10-2024

Chuyên đề

  • Việt Nam trên báo Mỹ
  • Tạp chí Phương Đông

Kết nối với chúng tôi

Nguồn tài liệu

  • The Vietnam Center and Sam Johnson Vietnam Archive
  • MSU Vietnam Group Archive
  • The Wilson Center Digital Archive
  • The National Security Archive
  • CIA Historical Collections
  • Office of the Historian – U.S. Department of State
  • National Archives
  • Internet Archive
  • United Nations Archives
  • Journal of Vietnamese Studies
  • Harvard-Yenching Library
  • Yale University Digital Collections: Maurice Durand Han Nom
  • Digital Libraries – Gallica – BnF
  • Les Archives nationales d’outre-mer
  • Bulletin de l’École française d’Extrême-Orient
  • Sách Đông Dương – Thư viện QGVN
  • Thư tịch Hán Nôm – Thư viện QGVN
  • Báo chí số hóa – Thư viện QGVN

Bài mới

  • Trang phục người dân An Nam
  • Hội thi bơi trải ở ngã ba Bạch Hạc
  • Ngựa và voi trong tín ngưỡng của người An Nam
  • Nhà báo Anh thuật lại cuộc gặp với Chủ tịch Hồ Chí Minh và Thủ tướng Phạm Văn Đồng năm 1965
  • Kerry – McCain: Một tình bạn khép lại cuộc chiến

Lưu trữ

TRƯNG BÀY KỶ VẬT CHIẾN SĨ

Tags

1945 1954 1975 Bảo Đại Báo chí Chiến tranh Việt Nam Chiến tranh Đông Dương chế độ thực dân chủ nghĩa thực dân Chủ tịch Hồ Chí Minh CIA Cách mạng Tháng Tám giới thiệu sách Hoa Kỳ Huế Hồ Chí Minh Hà Nội Mỹ nghệ thuật ngoại giao Ngô Đình Diệm Ngô Đình Nhu Nhật phong trào phản chiến phong tục phản chiến Pháp POW/MIA Quan hệ Việt - Mỹ Sài Gòn thuộc địa Thập niên 1960 Thực dân Pháp triều Nguyễn Tết tình báo Vietnam War Việt Minh Việt Nam Cộng hòa Việt Nam thời hậu chiến Việt Nam trên báo Mỹ văn hóa Đảo chính Đông Dương Đông Nam Á

Đăng ký

  • ĐĂNG KÝ LÀM THẺ
  • ĐĂNG KÝ TẢI TÀI LIỆU SỐ
  • Thế giới đang thay đổi – Trật tự đa cực xuất hiện Xuất bản
  • Chợ Lớn 1955: Ký và họa Xuất bản
  • Nước Nga trong thế giới đa cực Xuất bản
  • Con đường thiên lý: Hành trình kỳ lạ của các sứ bộ Anh Quốc tới Việt Nam thế kỷ 17 – 19 Xuất bản
  • Giải phóng Xuất bản
  • Nước mắt mùa thu Xuất bản
  • Pol Pot: Mổ xẻ một cơn ác mộng Xuất bản
  • Cuộc chiến của tôi với CIA: Hồi ký của Hoàng thân Norodom Sihanouk Xuất bản
  • Chuyến thăm Hà Nội Xuất bản
  • Miền đất vàng Đông Dương Xuất bản
  • Những biên bản cuối cùng tại Nhà Trắng: Phút sụp đổ của Việt Nam Cộng Hòa Xuất bản
  • Một góc nhìn thời cuộc Xuất bản
  • Thắng địa Thăng Long – Địa linh đất Việt Xuất bản
  • Biển Đông – Nhìn từ góc độ lịch sử và pháp lý Xuất bản
  • Đối thoại với các phái đoàn Hoa Kỳ Xuất bản

Copyright © 2025 Thư viện Nguyễn Văn Hưởng.