Skip to content
  • ĐĂNG KÝ LÀM THẺ
  • ĐĂNG KÝ TẢI TÀI LIỆU SỐ
Thư viện Nguyễn Văn Hưởng

Thư viện Nguyễn Văn Hưởng

CỔNG THÔNG TIN – NVH LIBRARY'S PORTAL

  • Trang chủ
  • Giới thiệu
    • Giới thiệu thư viện
    • Đội ngũ nhân sự
    • Liên hệ
    • Báo chí
    • Tuyển dụng
  • Dịch vụ thư viện
    • Câu hỏi thường gặp
    • Bảng giá dịch vụ
    • Đăng ký làm thẻ
    • Đăng ký tài khoản Thư viện số
  • Tài nguyên
    • Blog tư liệu
    • Xuất bản
    • Tin tức
  • Danh mục sách
  • Thư viện số
  • Trưng bày trực tuyến
  • Toggle search form
  • Tìm hiểu mối quan hệ giữa Nguyễn Ái Quốc và Kỳ ngoại hầu Cường Để Blog tư liệu
  • Sự sôi nổi thiết tha của dân chúng Việt Nam đối với nền độc lập hoàn toàn được một nhà nhiếp ảnh trong phái bộ quan sát Mỹ thu hết vào ống kính đem về Hoa Thịnh Đốn Blog tư liệu
  • Tội phản quốc của tên Việt gian Quản Dưỡng với cuộc nổi dậy của dân chúng Hà Đông Blog tư liệu
  • Sự kiện Nhật đảo chính Pháp tháng 3 năm 1945 qua Hồi ký Đại sứ Nhật Masayuki Yokoyama (Kỳ 2) Blog tư liệu
  • Ông Lương Như Hộc – Tổ nghề ấn loát của Việt Nam Blog tư liệu
  • Rút quân khỏi Hà Nội Blog tư liệu
  • Tình hình rối ren ở Việt Nam cuối năm 1945, đầu năm 1946 Blog tư liệu
  • Một số vấn đề tư tưởng Trần Nhân Tông Blog tư liệu
  • Bài trí đầy tinh thần mến khách cho đàm phán hòa bình Việt Nam Blog tư liệu
  • Ký sự của một tù nhân An Nam ăn Tết ở Guyane thuộc Pháp đầu thế kỷ XX Blog tư liệu
  • Thời kỳ bất ổn của Liên Xô: Từ cải cách đến tan rã Blog tư liệu
  • Ngày 9/10/1954, Quân đội nhân dân Việt Nam đã tiếp thu hoàn toàn Thủ đô Hà Nội Blog tư liệu
  • Sự sụp đổ của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu qua hồi ký Trần Văn Đôn Blog tư liệu
  • Giới thiệu sách: Viet-Nam Witness, 1953-1966 Blog tư liệu
  • Joan Baez ở Hà Nội: Lễ Giáng sinh dưới mưa bom Blog tư liệu

Nguyễn Trung Trực – một Kinh Kha chống Pháp của miền Nam

Posted on 24/06/202504/08/2025 By editor No Comments on Nguyễn Trung Trực – một Kinh Kha chống Pháp của miền Nam

Phạm Văn Sơn

Nguyễn Trung Trực là một trong những anh hùng dân tộc tiêu biểu của phong trào kháng chiến chống Pháp nửa sau thế kỷ XIX. Tạp chí Phương Đông sưu tầm và trích giới thiệu tới bạn đọc bài viết “Nguyễn Trung Trực – một Kinh Kha của miền Nam” in trong Tập san sử địa số 12 xuất bản năm 1968 kể về những chiến công táo bạo và lòng yêu nước bất khuất của vị anh hùng này.

… Tình trạng nước nhà kể từ Minh Mạng, Thiệu Trị đến Tự Đức chỉ mỗi ngày một suy sụp thêm cho nên việc ba tỉnh miền Đông thất thủ, Hòa ước Nhâm Tuất (1862) ra đời là điều dĩ nhiên và Hòa ước này đã làm cho các người yêu nước từ Nam ra Bắc phải điên đầu, thất vọng.

Các anh hùng, nghĩa sĩ đều nổi lên. Trong đầu óc của những nhà ái quốc ai nấy đều có ý kiến vừa chống Pháp, vừa chống triều đình vì Pháp là giặc mà triều đình bất tài, bất lực cúi đầu theo giặc thì cũng thành giặc rồi… Còn gì để theo nữa?

Bởi vua Tự Đức không còn là thần tượng cho nước Việt Nam sau khi đã chấp nhận hòa với Pháp trong những điều kiện thê thảm kể trên, nên phong trào nghĩa quân cứu quốc bột phát với các lãnh tụ như Trương Định, Nguyễn Trung Trực, Nguyễn Hữu Huân, Võ Duy Dương, Trần Văn Thành…

Chỗ thì xưng là “Dân chúng tự vệ”, chỗ nêu khẩu hiệu “Bình Tây sát tả”, dân chúng góp xương máu, của cải không tiếc gì và chỉ còn nghe hiệu lệnh của các lãnh tụ kể trên mà thôi. Pháp khiển trách triều đình. Triều đình sai Phan Thanh Giản vào Nam yêu cầu nhân dân hạ khí giới. Nhân dân chống lại qua nơi Trương Định, Nguyễn Trung Trực, Nguyễn Hữu Huân… một cách quyết liệt.

Tem bưu chính in hình Nguyễn Trung Trực kỉ niệm 150 ngày ông hy sinh. Nguồn: Bộ Thông tin và Truyền thông Việt Nam

Trong hàng lãnh tụ nghĩa quân người ta để ý đến Nguyễn Trung Trực ở điểm ông tuy thuộc thành phần bình dân (ông làm ruộng và đánh cá, sinh quán ở Tây An) nhưng tấm lòng vị nước vị dân không thua một ai trong thời của ông. Số người theo ông chống thực dân Pháp buổi đầu cũng không lấy gì làm nhiều từ Tân An qua Rạch Giá và nghĩa quân Nguyễn Trung Trực đã hoạt động nhiều vào cuối năm 1862. Có lẽ lúc này không riêng bọn ông Nguyễn Trung Trực đã thất vọng về Hòa ước Nhâm Tuất mà có thể nói là toàn quốc xét thấy Hòa ước này có nhiều cơ nguy cho xứ sở.

Thành tích đầu tiên của họ Nguyễn là đốt phá tàu binh “Espérance” của Pháp neo ở bến Nhựt Tảo gần Sài Gòn nhưng thuộc tỉnh Tân An, khi đó chỉ huy tàu là Trung tướng Parfait. Tàu này đóng tại bên sông Vàm do công tác đổ bộ quân lính đi tảo thanh các vùng quê lân cận đang có nghĩa quân trú ẩn và ngày đêm lui tới tập kích vào các đồn bốt của giặc.

Ông Nguyễn khéo bày một kế hoạch đánh phá chiến hạm Espérence rất hay như sau:

Ông tổ chức một đám cưới dùng thuyền đi trên sông trong đó có chú rể, cô dâu, họ hàng già trẻ đủ mặt và cả lễ vật. Lúc này thuyền binh của Pháp đóng ở sông Nhựt Tảo có lệ khám xét các thuyền của ta qua lại và phải trình thẻ bài do chính Pháp cấp.

Khi thuyền cưới tới gần thuyền của Pháp, một người vờ lên trình thẻ bài. Quân Pháp không ngờ, tức thì ông Nguyễn và bọn thủ hạ nhảy lên theo đánh chém lung tung và ngay lúc đó có nhiều thuyền chở rơm và bổi của nghĩa quân cũng ào tới, nổi lửa đốt tàu Pháp. Quân Pháp vì không có đề phòng bị chém chết và bị thương ngã gục hết. Trong chớp nhoáng, tàu Pháp cháy to và người trong các thuyền của nghĩa quân đều nhảy lên bờ tàu thoát hết.

Giặc kêu la ầm ĩ, lửa bốc ngút trời, máy tàu nổ tan tành. Kết quả 17 tên Pháp thiệt mạng, 20 tên lính tập người Việt cũng chết theo. Tàu chìm còn trơ cái sườn sắt ngập một nửa dưới nước.

Mô hình tái hiện trận chiến Nhựt Tảo năm 1861 tại Khu Di tích Vàm Nhựt Tảo, Long An. Nguồn: Wikipedia

Xong chiến công oanh liệt này, nghĩa quân rút gấp về Cà Mau. Pháp giận lắm, cho quân đi lùng khắp nơi nhưng Kinh Kha họ Nguyễn và các đồng chí đã biệt dạng tự bao giờ.

Một chiến công khác cũng được đồng bào miền Nam không quên thời ông Nguyễn phất cờ chống Pháp đã được gây ra tại Rạch Giá, nơi Pháp đóng đồn và trong đồn có nhiều lính người Việt. Đáng chú ý là khi đánh đồn này, Nguyễn đã dùng hai phụ nữ tuy chân yếu tay mềm nhưng thừa đảm lược. Đó là hai chị em bà Điền, bà Đỏ được ông Nguyễn cắt cử từ Cà Mau lên Rạch Giá. Hai bà đã thi hành công tác binh nên viên Quản cơ và binh sĩ trong đồn ngầm theo hết. Rồi một đêm, nghĩa quân bất thình lình mở cuộc tấn công, Pháp quân hoảng hốt chạy hết ra ngoài vừa bị quân cách mạng vừa bị dân chúng ập tới chém giết được hết. Đồn bị triệt hạ, ngày hôm sau không còn một tên giặc Pháp nào có mặt ở Kiên Giang nữa.

Từ bấy giờ trở về sau, cách vài chục năm Pháp không còn dám dùng người Việt làm Quản cơ và sau khi thắng trận, làm chủ thành Rạch Giá, ông Nguyễn thiết lập ngay một hệ thống đồn trại dài từ núi Sập tới tỉnh lỵ (50 cây số) đắp đập thả chà, đóng cừ phòng tàu chiến của giặc kéo tới. Để thông tin, các đồn bốt của ta có trống mõ. Tiếc rằng trong nghĩa quân bấy giờ có một số nhũng nhiễu dân, lấy gà vịt rau cỏ của đồng bào nên lòng dân một phần có sự bất mãn. Sau này, Pháp kéo quân đến, những chướng ngại vật của ông Nguyễn đều bị phá hủy do chúng có những phương tiện rất lợi hại, nghĩa quân chống không lại phải rút đi.

Phan Thanh Giản lên chiến hạm Ondine thương thảo với Thống soái Pháp tại Nam kỳ La Grandière. Nguồn: Tập san Le Monde illustré, số 541 (ngày 24.8.1867)

Về chung cuộc ông Nguyễn còn để lại lịch sử vàng son của dân tộc một võ công có nhiều cử chỉ rất can trường để xứng đáng với hai câu đối đồng bào đã tặng ông sau này:

Hỏa hồng Nhật Tảo oanh thiên địa,

Kiếm bạt Kiên Giang khấp quỷ thần.

Cuộc khởi nghĩa chống thực dân của ông kéo dài tới năm 1867 sau khi ông ra Bình Thuận được phong chức Lãnh binh, và được cử vào Hà Tiên tiếp tục chiến đấu. Xét ra thuở đó quân đội Pháp đã mạnh lắm rồi, tương đối với lực lượng của nghĩa quân (bấy giờ chỉ có nghĩa quân ra mặt đánh địch mà thôi còn triều đình Tự Đức đã khoanh tay cúi đầu ngay sau khi ký Hòa ước Nhâm Tuất năm 1862) mà quân số không ngoài 100 mà thôi, lại còn thiếu trang bị, tiếp vận là điều vô cùng cần thiết. Mặc dầu quân đơn thế yếu, binh bị tổ chức sơ sài, hầu như không có huấn luyện, ông vẫn xông pha ngoài chiến địa. Lúc này ông có mặt ở đảo Phú Quốc. Bọn thực dân bằng tàu Groéland chở tên đại Việt gian Đội Tấn và 150 tên lính mã tà ra đây mở cuộc truy kích. Quân số của ông Nguyễn có khoảng 300 chỉ trội về lượng mà thôi. Đội Tấn nắm vững tình thế của nghĩa quân đã chỉ là đoàn quân ô hợp nên can đảm giao phong cùng quân cách mạng, ngoài ra y đã khéo dọa dẫm dân chúng và hương chức tại đảo nên đã cô lập được nghĩa quân, ngoài ra còn buộc họ trợ giúp cho quân của hắn.

Sau hai trận đánh ác liệt về phần cả đôi bên, ông Nguyễn rút vào núi cùng các đồng chí rồi bị bao vây quá ngặt nghèo, ông đành phải ra hàng để tránh cho anh em một sự tiêu diệt toàn thể.

Ông Nguyễn và tên Tấn vốn quen biết nhau vì trước kia cùng chiến đấu dưới cờ của Nguyên soái Trương Công Định. Nghĩ tình cũ, Đội Tấn yêu cầu quan Pháp hậu đãi ông Trực. Pháp bắt ông xuống tàu Groéland. Paulin Vial [Giám đốc Nội vụ Pháp ở Nam Kỳ] viết: “Trong khi Đại tá Piquet, thanh tra bổn quốc sự vụ chất vấn ông Trực, ông này tỏ ra rất có khí phách anh hùng và cương nghị.”

Ông bình tĩnh nói với Piquet rằng: “Số tôi hết rồi, tôi đã không cứu được quê hương tôi thì nay tôi chỉ xin một điều là được chết sớm chừng nào hay chừng nấy!” Lãnh binh Tấn (tức Đội Tấn lên chức) hết sức can thiệp với quan Pháp để tha cho ông Nguyễn Trung Trực mà lúc này hắn vẫn coi là đàn anh hắn. Nhưng đô đốc Ohier không chịu, nói rằng không thể tha được “một người không coi luật quốc tế ra gì, đã hạ một cái đồn của chúng ta và giết 30 người Pháp!” (Dịch nguyên Pháp văn của Paulin Vial).

Rồi Ohier ra lệnh chở ông Trực về Rạch Giá. Ông đền nợ nước vào ngày 27 tháng 10 năm 1868. Năm ấy ông mới 30 tuổi.

Và Paulin Vial khen ngợi: “Ông Nguyễn Trung Trực là một người chỉ huy trẻ tuổi, rất bạo dạn, chống nhau với ta ngót 10 năm trời…”

Chân dung Paulin Vial chụp bởi nhiếp ảnh gia Émile Lacour năm 1888. Nguồn: Thư viện Gallica

Một nhân sĩ miền Nam cho rằng ông Nguyễn bị hạ không do trường hợp trên đây. Theo ông, bấy giờ Pháp treo giải thưởng để bắt ông với điều kiện sau đây: Ai giúp mưu kế bắt được ông Nguyễn hay ai bắt được ông hoặc sống hoặc chết đều sẽ được lãnh 500 quan. Bấy giờ có hai kẻ chỉ cho Pháp bắt mẹ ông. Pháp liền đến Hà Tiên bắt được bà cụ và dọa giết nếu không ra hàng. Người Pháp thi hành đúng theo kế hoạch này, quả nhiên ông ra.

Thấy người trung hiếu, khảng khái quá, Pháp không nỡ giết và dụ quy thuận, hứa nếu ông nhận lời sẽ cho làm chức Phó Soái. Ông nói: “Tụi bay hãy kiếm cho tao cái chức gì giết Tây được thì tao làm, chớ chức Phó Soái tao không màng!”

Khuyến dụ hết sức không được, người Pháp buộc lòng phải hạ lệnh trảm quyết ông.■

Blog tư liệu Tags:chế độ thực dân, Pháp, thuộc địa

Post navigation

Previous Post: Hồi kết của cuộc chiến ở Đông Dương (1954)
Next Post: Nguy cơ can thiệp quân sự từ Hoa Kỳ trong giai đoạn đàm phán Hội nghị Genève 1954 và chiến lược của quốc gia này

More Related Articles

Ghi chú mật và báo cáo giám sát của Pháp về Nguyễn Ái Quốc năm 1920 Blog tư liệu
Sự kiện Nhật đảo chính Pháp tháng 3 năm 1945 qua Hồi ký Đại sứ Nhật Masayuki Yokoyama (Kỳ 2) Blog tư liệu
Thành phố Hải Phòng đầu thế kỷ XX Blog tư liệu
Phụ nữ Tây Phương nhìn phụ nữ Việt Nam 100 năm trước (Kỳ 1) Blog tư liệu
Những tháng cuối cùng của triều đình An Nam Blog tư liệu
Cuộc chiến tình báo giữa Pháp và Việt Minh trước Điện Biên Phủ Blog tư liệu

Leave a Reply Cancel reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

  • Tạp chí Phương Đông Official Channel
  • Thư viện Nguyễn Văn Hưởng Fanpage
Tạp chí Phương Đông số tháng 10-2024

Chuyên đề

  • Việt Nam trên báo Mỹ
  • Tạp chí Phương Đông

Kết nối với chúng tôi

Nguồn tài liệu

  • The Vietnam Center and Sam Johnson Vietnam Archive
  • MSU Vietnam Group Archive
  • The Wilson Center Digital Archive
  • The National Security Archive
  • CIA Historical Collections
  • Office of the Historian – U.S. Department of State
  • National Archives
  • Internet Archive
  • United Nations Archives
  • Journal of Vietnamese Studies
  • Harvard-Yenching Library
  • Yale University Digital Collections: Maurice Durand Han Nom
  • Digital Libraries – Gallica – BnF
  • Les Archives nationales d’outre-mer
  • Bulletin de l’École française d’Extrême-Orient
  • Sách Đông Dương – Thư viện QGVN
  • Thư tịch Hán Nôm – Thư viện QGVN
  • Báo chí số hóa – Thư viện QGVN

Bài mới

  • Đông Dương quanh co (Kỳ 2: Từ Sài Gòn tới Đà Lạt)
  • Giáo dục dưới thời Toàn quyền Albert Sarraut và Martial Merlin
  • Mặt trận phản chiến bên trong nước Mỹ
  • Cuộc chiến “châu chấu đá voi” ở Việt Nam
  • Hoạt động tình báo ở các đô thị Việt Nam bị địch tạm chiếm giai đoạn 1945 – 1954

Lưu trữ

TRƯNG BÀY KỶ VẬT CHIẾN SĨ

Tags

1945 1954 1975 Bảo Đại Báo chí Campuchia Chiến tranh Việt Nam Chiến tranh Đông Dương chế độ thực dân chủ nghĩa thực dân Chủ tịch Hồ Chí Minh CIA Cách mạng Tháng Tám giới thiệu sách Hoa Kỳ Huế Hồ Chí Minh Hà Nội Mỹ nghệ thuật ngoại giao Ngô Đình Diệm Ngô Đình Nhu phong trào phản chiến phong tục phản chiến Pháp POW/MIA Quan hệ Việt - Mỹ Sài Gòn thuộc địa Thập niên 1960 Thực dân Pháp triều Nguyễn Tết tình báo Vietnam War Việt Minh Việt Nam Cộng hòa Việt Nam thời hậu chiến Việt Nam trên báo Mỹ văn hóa Đảo chính Đông Dương Đông Nam Á

Đăng ký

  • ĐĂNG KÝ LÀM THẺ
  • ĐĂNG KÝ TẢI TÀI LIỆU SỐ
  • Chợ Lớn 1955: Ký và họa Xuất bản
  • Một góc nhìn thời cuộc Xuất bản
  • Cuộc chiến của tôi với CIA: Hồi ký của Hoàng thân Norodom Sihanouk Xuất bản
  • Tầm nhìn từ Lịch sử Xuất bản
  • Giải phóng Xuất bản
  • Nước Nga trong thế giới đa cực Xuất bản
  • Những biên bản cuối cùng tại Nhà Trắng: Phút sụp đổ của Việt Nam Cộng Hòa Xuất bản
  • Miền đất vàng Đông Dương Xuất bản
  • Biển Đông – Nhìn từ góc độ lịch sử và pháp lý Xuất bản
  • Chuyến thăm Hà Nội Xuất bản
  • Nước mắt mùa thu Xuất bản
  • Thế giới đang thay đổi – Trật tự đa cực xuất hiện Xuất bản
  • Thắng địa Thăng Long – Địa linh đất Việt Xuất bản
  • Con đường thiên lý: Hành trình kỳ lạ của các sứ bộ Anh Quốc tới Việt Nam thế kỷ 17 – 19 Xuất bản
  • Đối thoại với các phái đoàn Hoa Kỳ Xuất bản

Copyright © 2025 Thư viện Nguyễn Văn Hưởng.