Skip to content
  • ĐĂNG KÝ LÀM THẺ
  • ĐĂNG KÝ TẢI TÀI LIỆU SỐ
Thư viện Nguyễn Văn Hưởng

Thư viện Nguyễn Văn Hưởng

CỔNG THÔNG TIN – NVH LIBRARY'S PORTAL

  • Trang chủ
  • Giới thiệu
    • Giới thiệu thư viện
    • Đội ngũ nhân sự
    • Liên hệ
    • Báo chí
    • Tuyển dụng
  • Dịch vụ thư viện
    • Câu hỏi thường gặp
    • Bảng giá dịch vụ
    • Đăng ký làm thẻ
    • Đăng ký tài khoản Thư viện số
  • Tài nguyên
    • Blog tư liệu
    • Xuất bản
    • Tin tức
  • Danh mục sách
  • Thư viện số
  • Trưng bày trực tuyến
  • Toggle search form
  • Vấn đề chủ quyền ở Hoàng Sa – Trường Sa theo hướng tiếp cận toàn bộ, toàn diện của lịch sử Việt Nam Blog tư liệu
  • Tù binh của quá khứ Blog tư liệu
  • Tài liệu giải mật: Tính toán của CIA về việc sử dụng vũ khí hạt nhân trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam Blog tư liệu
  • Hồi ký Trần Oanh – Người đầu tiên kéo cờ Cách mạng Tháng Tám tại Nha Trang Blog tư liệu
  • Đông Dương quanh co (Kỳ 1: Hà Nội và các vùng lân cận) Blog tư liệu
  • Những cú đấm bão táp hướng về cuộc đàm phán hòa bình Blog tư liệu
  • Phù Nam từ một góc nhìn mới Blog tư liệu
  • Sài Gòn năm xưa Blog tư liệu
  • Nhà báo Anh thuật lại cuộc gặp với Chủ tịch Hồ Chí Minh và Thủ tướng Phạm Văn Đồng năm 1965 Blog tư liệu
  • Việt Nam và các Đông Ấn công ty Blog tư liệu
  • Bóng người Yên Thế: Từ Hố Chuối đến Đồn Gò – Giang sơn Đề Thám Blog tư liệu
  • “Trại May Mắn” thẳng tiến Blog tư liệu
  • Thành Tây Đô: Công trình kiến trúc cổ bằng đá nổi tiếng Blog tư liệu
  • Thanh niên trí thức Việt Nam đi vào cuộc Cách mạng Tháng Tám như thế nào? Blog tư liệu
  • Những tác phẩm quan trọng về Chiến tranh Việt Nam (Phần 2) Blog tư liệu

Mặt trận phản chiến bên trong nước Mỹ

Posted on 14/11/202514/11/2025 By editor No Comments on Mặt trận phản chiến bên trong nước Mỹ

Todd Gitlin

Trần Hà dịch

Tháng 2/1983, Đại học California tổ chức cuộc hội thảo “Việt Nam, xem xét lại, bài học từ một cuộc chiến tranh”. Hội thảo đã nhìn lại nhiều mặt của cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam, đặc biệt là phong trào phản đối chiến tranh ở Mỹ. Todd Gitlin (1943–2022) – nhà xã hội học, nhà hoạt động chính trị, nhà văn người Mỹ, nổi bật với vai trò lãnh đạo phong trào cánh tả mới (New Left) tại Hoa Kỳ trong thập niên 1960 – đã có bài viết về tác động của phong trào phản chiến, cho chúng ta cái nhìn khách quan về phong trào này. Tạp chí Phương Đông xin giới thiệu tới bạn đọc toàn văn bài viết. 

Tác giả Todd Gitlin trong văn phòng của mình tại Berkeley, California, năm 1988. Ảnh: Terrence McCarthy

Điều làm chúng ta tò mò là trong số những người lớn tiếng nhất cho rằng phong trào phản đối Chiến tranh Việt Nam có tác động lớn lại là những người từng chỉ trích và coi nhẹ tác động của phong trào. Những người được coi là bảo thủ, kể cả những người theo xu hướng mới và cũ cho rằng trong những năm 1960, nước Mỹ bị tác động mạnh mẽ bởi “tầng lớp mới” bao gồm những trí thức, sinh viên cánh tả, những người thuộc sắc tộc thiểu số tự cao, tự đại và phụ nữ. Họ không chỉ phá hoại an ninh quốc gia, trực diện tấn công lập trường của nước Mỹ và buộc chúng ta phải trả giá cho một thắng lợi cao cả có thể đạt được ở Việt Nam.

Hoàn toàn trái ngược lại, tôi có cảm tưởng là hầu hết những người hoạt động chống chiến tranh trong những năm 1960 lại cho rằng phong trào hầu như không đạt được gì. Hầu hết sinh viên hiện nay dường như có cùng ý kiến cho rằng những năm 1960 xa xăm là thời khắc bạo loạn bùng phát.

Tôi cho rằng rất có thể sẽ đúng hơn khi nói rằng phong trào chống Chiến tranh Việt Nam là phong trào chống chiến tranh vũ khí nóng thành công nhất trong lịch sử.

Tuy nhiên, hầu hết những người lãnh đạo phong trào không bằng lòng với hành động phản đối. Họ muốn có một cuộc cách mạng. Nhưng trong quá trình phát triển, tự phong trào lại làm mình tê liệt không tiếp tục đáp ứng được yêu cầu của giai đoạn sau. Vì thế, tôi sẽ bắt đầu bằng tác động của phong trào đối với cuộc chiến tranh và tiếp đến tôi sẽ nói về tác động của cuộc chiến với phong trào và tác động của phong trào lên chính nó.

Chúng ta hãy quay trở lại những năm trước khi hình ảnh gây sốc của những năm 1969 – 1971 vẫy cờ NLF (Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam), đập phá cửa sổ, ném đá, đặt bom và đốt cháy toà nhà tập quân sự của sinh viên; vụ nổ bom ở toà thị chính làm chết ba thành viên của Tổ chức Weather Underground, những viên đá ném vào Richard Nixon. Hay quay trở lại những năm 1964 – 1965 khi chính quyền Johnson bắt đầu cam kết tiến hành Chiến tranh Việt Nam. Sau vụ Vịnh Bắc bộ tháng 8/1964 là nghị quyết trao toàn quyền cho Tổng thống với số phiếu chống chỉ là hai. Đến Noel năm đó, Tổ chức sinh viên vì xã hội dân chủ (SDS) đã mạnh bạo kêu gọi toàn nước Mỹ biểu tình chống chiến tranh vào tháng Tư. Trong khoảng thời gian đó, chính quyền Johnson đã bắt đầu ném bom có hệ thống Bắc Việt Nam. Đến tháng Tư, hơn 25 ngàn người đã xuống đường chống Chiến tranh Việt Nam, đa số người biểu tình mặc áo comple và đeo cra-vát. Vào cuối tháng Tư đã có cuộc toạ đàm của sinh viên trường đại học. Đến mùa thu (1965), cuộc biểu tình phối hợp trên phạm vi toàn nước Mỹ đã xảy ra, có những cuộc mang tính bạo động (có vài người biểu tình tìm cách chặn tầu chở lính); đốt thẻ quân dịch ở nhiều nơi được báo chí đưa tin và các phương tiện thông tin đại chúng đưa loạn tin về kế hoạch của SDS ngăn cản quân dịch tuy kế hoạch đó không tồn tại. Trong vòng ba năm sau, nhiều nhà lãnh đạo về quyền công dân bắt đầu lên án cuộc chiến tranh, đã có những nỗ lực để đưa những hành động phản chiến thành vấn đề bầu cử và thành vấn đề của các hiệp hội chuyên ngành. Đã có những cuộc vận động rộng lớn ở Washington, ở Lầu Năm góc và ở trung tâm Oakland.  Lính có vũ trang và cảnh sát không trang bị đã được sử dụng. Đã có những tiếng nói âm thầm – chỉ là tiếng nói âm thầm thôi – về sự cần thiết phải sử dụng vũ lực để chấm dứt chiến tranh. Đã có những hành động khiêu khích đầu tiên của chính quyền. Đến tháng 8/1968, hàng ngàn người đã xuống đường ở Chicago tuần hành dưới ống kính của phương tiện truyền thông vào dịp Đại hội của Đảng Dân Chủ.

Giả sử như cuộc chiến vẫn tiếp tục mà không có hành động phản đối của công chúng. Giả sử như khi đó chỉ có những hành động bất đồng chính kiến bị động khi bỏ phiếu nhưng không có phong trào trên đường phố. Giả sử như cuộc chiến ở Việt Nam cũng như cuộc chiến ở Triều Tiên. Điều gì sẽ giữ cho cuộc chiến không leo thang khốc liệt hơn và sớm hơn với lượng vũ khí lớn hơn, số quân lớn hơn và số người chết cũng lớn hơn? Hành động phản đối sẽ được tổ chức như thế nào?

Chúng ta khó tìm được những bằng chứng cụ thể về tác động của phong trào. Điều này đúng đến mức ngay cả nhiều người tham gia phong trào cũng cảm thấy rằng họ hầu như không có thành công nào. Xét cho cùng thì hết chính quyền này đến chính quyền khác không chịu chấp nhận trao công cho bất kỳ ai và phong trào thì lại ở giai đoạn tuyệt vọng tìm cách đặt cọc cao gấp đôi hoặc không được gì. Điều này tạo ra cơn tức giận – cuối cùng là làn sóng bạo lực, đặc biệt khi các phương tiện truyền thông lại mẫn cán làm nhiệm vụ của mình, khuếch đại những điều tồi tệ nhất và ngốc ngếch nhất của phong trào phản chiến.

Các cuộc biểu tình tại Washington D.C. phản đối sự tham gia của Mỹ vào cuộc chiến tranh ở Việt Nam trong thập niên 1960 và 1970. Ảnh: AP

David Halberstam đã đưa tin về một trường hợp phong trào sử dụng “quyền phủ quyết” trong cuốn “Những người giỏi nhất và thông minh nhất”. Vào cuối năm 1966, quân đội đã thúc Tổng thống Johnson ném bom Hà Nội và Hải Phòng, phong toả cảng và phá hoại cơ sở công nghiệp ở cả hai thành phố. Johnson nói: “Tôi có một bài toán cho máy tính của các bạn – các bạn có thể cho dữ liệu vào máy tính không. Phải mất bao lâu để có 500 người Mỹ tức giận trèo tường vào Nhà Trắng và tấn công Tổng thống nếu Tổng thống làm điều như vậy?”. Lời nói này tạm chấm dứt kế hoạch ném bom Hà Nội và Hải Phòng. Giờ thì chúng ta đã biết rằng cuộc vận động tạm hoãn và huy động mùa thu năm 1969 kéo dài và chậm lại. Tối hậu thư của Nixon tháng 11/1969: một loạt bước leo thang được chuẩn bị, kể cả việc ném bom đê điều Bắc Việt Nam và có thể đưa quân đánh bộ đến miền Bắc. Tất cả những hành động này cùng một lúc. Điều đáng ghi nhớ là ông Nixon còn cho biết ông sẽ vẫn vô ưu xem chương trình Redskin trên vô tuyến truyền hình.

Tóm lại, phong trào cũng có quyền phủ quyết nào đó, nhưng lại hầu như không biết rằng mình có được quyền đó. Phong trào chỉ biết rằng giết chóc đang xảy ra hàng ngày. Theo tôi, đó là lý do đưa phong trào đã đi đến cái kết cay đắng, những hành động bạo lực tự cô lập mình và đến năm 1972 phong trào đã không còn hoạt động gì nữa.

Không có bằng chứng nào chứng tỏ phong trào có tác động đến dư luận. Dư luận có dần quay ra chống cuộc chiến, nhưng nói cho đúng thì khi cuộc chiến tranh dần trở nên ít được ưa chuộng hơn thì phong trào chống chiến tranh cũng vậy, có thể thậm chí còn nhanh hơn. Phong trào có tác động thông qua ảnh hưởng gián tiếp với hoạt động chính trị và kinh tế quanh cuộc chiến. Cho dù phong trào không muốn mình chỉ mang tính “cải cách” khi cuộc chiến tiếp tục, phong trào là một động cơ nhỏ khởi động một động cơ mạnh hơn có thể làm chậm cuộc chiến.

Điều đã xẩy ra là giới tinh hoa trong chính trị, doanh nghiệp và truyền thông đã mất hy vọng về cuộc chiến. Cuộc chiến không đem lại gì. Đầu tiên là mùa thu năm 1967, tờ Wall Street Journal bất đồng chính kiến về cuộc chiến với lý do hoàn toàn thực dụng. Một vài tháng sau, sau Tết, Walter Cronkite (biên tập viên dẫn chương trình tin cho kênh truyền hình CBS) nói rằng Mỹ cần phải tìm đường rút sau khi đã thất bại không “bảo vệ được dân chủ”, như lời của chính ông. Đến thời điểm đó, W. Cronkite không còn đơn độc. Đầu tiên là McCarthy và rồi cuộc vận động tranh cử của Kennedy đã đưa nguồn năng lượng chống chiến tranh vào dòng chính trong các hoạt động chính trị của nước Mỹ. Cùng thời điểm đó, Clark Clifford, Bộ trưởng Quốc phòng thời Tổng thống Johnson, mất niềm tin vào cuộc chiến và bắt đầu thúc đẩy những hành động chống chiến tranh trong giới tinh hoa chính trị vốn là một phần của sự đồng thuận về chính sách đối ngoại tồn tại từ năm 1945. Khi Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân yêu cầu thêm 206.000 quân, Quốc hội đã tranh luận và Clifford đã thuyết phục Johnson gặp với nhóm cố vấn không chính thức, sau này thường gọi là nhóm Nhà thông thái gồm Dean Acheson, George Ball, McGeorge Bundy, C. Douglas Dillion, Cyrus Vance và những nhân vật khác.

Ba ngày sau, Johnson từ chối chấp nhận đề nghị tăng quân của Tướng Wheeler, thông báo ngừng ném bom một phần và rút khỏi cuộc vận động tranh cử. Nhóm nhà thông thái đã thực sự thông thái, họ thấy rằng nước Mỹ phải trả gía rất cao cho cuộc chiến về cả chính trị lẫn quân sự. Quốc hội cũng dần học được bài học như vậy. Về mặt chính trị, nhóm nhà thông thái có ấn tượng sâu sắc về mối đe doạ tới an bình xã hội ở trong nước. Về mặt kinh tế, đồng đô la bị sụt giá nhanh chóng, cán cân thanh toán đang bị thâm hụt nhiều và dự trữ vàng của Mỹ đang hao hụt. Lẽ dĩ nhiên, nguyên nhân trực tiếp là Johnson không dám tăng thuế để chi phí cho cuộc chiến, e rằng sẽ mất cơ sở chính trị của mình. Để tiếp tục cuộc chiến, Johnson đã phải tiếp tục chịu thâm hụt tài chính.

Tổng thống Mỹ Johnson họp với các cố vấn chính sách đối ngoại, trong đó có Clark Clifford (phía trước bên trái) vào tháng 8/1967. Ảnh: Thư viện Tổng thống LBJ

Rút cục thì phong trào phản chiến đã giúp Mỹ rút khỏi Việt Nam, cả trực tiếp và gián tiếp. Nếu phong trào mạnh và nhạy bén hơn thì họ đã có thể giành được sự ủng hộ lớn hơn của các quan chức Mỹ, đã có thể rút ngắn hơn cuộc chiến. Ngay cả khi không còn lực lượng sau thảm bại McGovern năm 1972, phong trào phản chiến vẫn có thể ngăn không cho chính quyền Nixon suy nghĩ nghiêm chỉnh đến việc quay trở lại Việt Nam. Phải đến cuối năm 1975, cả hai viện của Quốc hội đã thức tỉnh và đã có biện pháp ngăn Mỹ can thiệp vào Angola và ngay cả hiện nay, hình ảnh ma quái của phong trào phản chiến đã ngăn không cho Mỹ can thiệp trực tiếp vào Trung Mỹ.

Thế nhưng điều gì đã xảy ra với phong trào trong suốt thời gian này? Thực tế khủng khiếp là phong trào đã vụng về phung phí phần lớn thái độ tôn trọng của mọi người. Nhiều lãnh đạo và người tham gia phong trào bắt đầu phải lòng phía bên kia. Nếu bom napalm xấu xa thì phía bên kia lại có thái độ cao cả. Nếu cờ Mỹ là bẩn thỉu thì cờ của Mặt trận dân tộc giải phóng lại sạch sẽ và luôn là mồi cho các biên tập viên ảnh chọn đăng báo giữa rừng cờ Mỹ ở các cuộc biểu tình. Nếu những hành động man rợ trong chiến tranh có thể ví như hành động giết hàng triệu người có chủ ý ở các trại tập trung của Đức Quốc xã và nếu Noel ở Mỹ lại có vẻ chống Chúa, theo logic của cánh tả thì những người chống Chúa theo xu hướng cộng sản hay dân tộc ắt hẳn sẽ là hiện thân của Chúa. Do vậy, một phần của phong trào mang hình bóng của một tuyên ngôn đầy hứng khởi của Đấng Giao tiếp vĩ đại cho rằng Việt Nam là “sự nghiệp cao cả”, nhưng một phía đã “quay xe”.

Nhiều người tham gia phong trào tưởng rằng họ đang tham gia vào một cuộc cách mạng, không phải là một phong trào phản chiến. Họ đã sử dụng những hình ảnh có sẵn từ các phong trào giải phóng dân tộc. Với các phong trào này, đau khổ và chủ nghĩa anh hùng là điều không thể bác bỏ được, tuy nhiên văn hoá chính trị của họ chẳng có gì để dậy chúng ta về phương cách quản lý một xã hội hiện đại. Khi những người biểu tình hô to: “Ho, Ho, Ho Chi Minh”, đạo đức đã bị bào mòn và một điều trở thành một nét quen thuộc của thế kỷ XX: những người biết mọi thứ sẽ đưa chân lý đến cho đại chúng sống trong tối tăm. Đây là phiên bản tả của chính sách “giành trái tim và khối óc”. Và do vậy nhiều năm sau, những người cấp tiến đã giúp những người bảo thủ lấy lại thái độ tôn trọng của mọi người với phong trào.

Tại sao nhiều nhà lãnh đạo phong trào lại đi theo con đường đó là điều không thể lý giải một cách đơn giản. Mặc áo cách mạng dễ hơn đánh vật với những gì chưa bao giờ gặp: tình cảnh trớ trêu là một phong trào cấp tiến có cơ sở trong thanh niên và những người vô chính phủ và những người sống bên lề xã hội và những người có học nhưng ngạo mạn sống trong một xã hội không chỉ cho phép có những ý kiến khác mà tạo điều kiện thay đổi lịch sử mà không đổ máu nhiều. Những người cách mạng hầu hết là trung lưu hung hăng vượt qua sự cô lập của mình. Họ cho rằng họ tự nguyện theo chủ nghĩa Lê-nin. Những người khác trở thành Yippie trang bị súng giả và chỉ giỏi nói miệng lưỡi, có những cử chỉ không nghiêm túc. Dĩ nhiên, vòng quay của các phương tiện truyền thông đã đẩy những lãnh đạo khoa trương nhất thành người nổi tiếng với công chúng và đã hạn chế ảnh hưởng của phong trào ở nước Mỹ.

Giữa sóng gió hình ảnh, phong trào đã mất hết tinh thần. Đại đa số im lặng cảm thấy rất bất ngờ khi thấy SDS tan rã và trở thành một tổ chức Mác-xít Lê-nin-nit cuồng tín. Họ không cho rằng nước Việt Nam cách mạng là vùng đất hứa. Nói chung, họ căm ghét quyền lực bất hợp pháp và có tình cảm vói những người nông dân dùng súng trường bắn máy bay cường kích-ném bom. Họ mong mỏi tìm kiếm một cơ sở khác cho quyền lực của mình và đã không làm được điều đó. Phong trào trước là chất nuôi dưỡng cho những phong trào sau. Như William More đã từng viết: “Những người lính chiến đấu và thua trận. Mục tiêu chiến đấu của họ lại tự hoàn thành cho dù họ có bị thất bại và khi những mục tiêu đó không phải là điều họ mong đợi, thì những người lính phải chiến đấu vì những mục tiêu mà họ mong đợi với một cái tên khác”.■

Blog tư liệu Tags:chế độ thực dân, Chiến tranh Việt Nam, thuộc địa, Vietnam War

Post navigation

Previous Post: Cuộc chiến “châu chấu đá voi” ở Việt Nam
Next Post: Giáo dục dưới thời Toàn quyền Albert Sarraut và Martial Merlin

More Related Articles

Chiến thuật phục kích, tấn công của du kích Nam Bộ qua phân tích của Cố vấn quân sự Mỹ tại Sài Gòn Blog tư liệu
Nhìn lại không khí sục sôi những ngày Cách mạng tháng Tám năm 1945 qua báo chí xưa Blog tư liệu
Những hoàng đế bị lưu đày: Thực dân Pháp và tình cảnh lưu vong của các vị vua nước Việt Blog tư liệu
Chẳng có chuông nào rung cho hòa bình Blog tư liệu
Một tình huống quân sự đặc biệt éo le: Khi lính Mỹ phản chiến Blog tư liệu
Bà Trần Lệ Xuân và vấn đề nữ quyền ở miền Nam Việt Nam Blog tư liệu

Leave a Reply Cancel reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

  • Tạp chí Phương Đông Official Channel
  • Thư viện Nguyễn Văn Hưởng Fanpage
Tạp chí Phương Đông số tháng 10-2024

Chuyên đề

  • Việt Nam trên báo Mỹ
  • Tạp chí Phương Đông

Kết nối với chúng tôi

Nguồn tài liệu

  • The Vietnam Center and Sam Johnson Vietnam Archive
  • MSU Vietnam Group Archive
  • The Wilson Center Digital Archive
  • The National Security Archive
  • CIA Historical Collections
  • Office of the Historian – U.S. Department of State
  • National Archives
  • Internet Archive
  • United Nations Archives
  • Journal of Vietnamese Studies
  • Harvard-Yenching Library
  • Yale University Digital Collections: Maurice Durand Han Nom
  • Digital Libraries – Gallica – BnF
  • Les Archives nationales d’outre-mer
  • Bulletin de l’École française d’Extrême-Orient
  • Sách Đông Dương – Thư viện QGVN
  • Thư tịch Hán Nôm – Thư viện QGVN
  • Báo chí số hóa – Thư viện QGVN

Bài mới

  • Đông Dương quanh co (Kỳ 2: Từ Sài Gòn tới Đà Lạt)
  • Giáo dục dưới thời Toàn quyền Albert Sarraut và Martial Merlin
  • Mặt trận phản chiến bên trong nước Mỹ
  • Cuộc chiến “châu chấu đá voi” ở Việt Nam
  • Hoạt động tình báo ở các đô thị Việt Nam bị địch tạm chiếm giai đoạn 1945 – 1954

Lưu trữ

TRƯNG BÀY KỶ VẬT CHIẾN SĨ

Tags

1945 1954 1975 Bảo Đại Báo chí Campuchia Chiến tranh Việt Nam Chiến tranh Đông Dương chế độ thực dân chủ nghĩa thực dân Chủ tịch Hồ Chí Minh CIA Cách mạng Tháng Tám giới thiệu sách Hoa Kỳ Huế Hồ Chí Minh Hà Nội Mỹ nghệ thuật ngoại giao Ngô Đình Diệm Ngô Đình Nhu phong trào phản chiến phong tục phản chiến Pháp POW/MIA Quan hệ Việt - Mỹ Sài Gòn thuộc địa Thập niên 1960 Thực dân Pháp triều Nguyễn Tết tình báo Vietnam War Việt Minh Việt Nam Cộng hòa Việt Nam thời hậu chiến Việt Nam trên báo Mỹ văn hóa Đảo chính Đông Dương Đông Nam Á

Đăng ký

  • ĐĂNG KÝ LÀM THẺ
  • ĐĂNG KÝ TẢI TÀI LIỆU SỐ
  • Nước mắt mùa thu Xuất bản
  • Miền đất vàng Đông Dương Xuất bản
  • Thắng địa Thăng Long – Địa linh đất Việt Xuất bản
  • Tầm nhìn từ Lịch sử Xuất bản
  • Những biên bản cuối cùng tại Nhà Trắng: Phút sụp đổ của Việt Nam Cộng Hòa Xuất bản
  • Giải phóng Xuất bản
  • Một góc nhìn thời cuộc Xuất bản
  • Chợ Lớn 1955: Ký và họa Xuất bản
  • Pol Pot: Mổ xẻ một cơn ác mộng Xuất bản
  • Biển Đông – Nhìn từ góc độ lịch sử và pháp lý Xuất bản
  • Thế giới đang thay đổi – Trật tự đa cực xuất hiện Xuất bản
  • Nước Nga trong thế giới đa cực Xuất bản
  • Cuộc chiến của tôi với CIA: Hồi ký của Hoàng thân Norodom Sihanouk Xuất bản
  • Chuyến thăm Hà Nội Xuất bản
  • Con đường thiên lý: Hành trình kỳ lạ của các sứ bộ Anh Quốc tới Việt Nam thế kỷ 17 – 19 Xuất bản

Copyright © 2025 Thư viện Nguyễn Văn Hưởng.