Skip to content
  • ĐĂNG KÝ LÀM THẺ
  • ĐĂNG KÝ TẢI TÀI LIỆU SỐ
Thư viện Nguyễn Văn Hưởng

Thư viện Nguyễn Văn Hưởng

CỔNG THÔNG TIN – NVH LIBRARY'S PORTAL

  • Trang chủ
  • Giới thiệu
    • Giới thiệu thư viện
    • Đội ngũ nhân sự
    • Liên hệ
    • Báo chí
    • Tuyển dụng
  • Dịch vụ thư viện
    • Câu hỏi thường gặp
    • Bảng giá dịch vụ
    • Đăng ký làm thẻ
    • Đăng ký tài khoản Thư viện số
  • Tài nguyên
    • Blog tư liệu
    • Xuất bản
    • Tin tức
  • Danh mục sách
  • Thư viện số
  • Trưng bày trực tuyến
  • Toggle search form
  • Martin Luther King Jr. nói về Chiến tranh Việt Nam Blog tư liệu
  • Tìm hiểu về ruộng Tịch điền và nghi lễ cày Tịch điền ở nước ta qua các triều đại phong kiến Blog tư liệu
  • Thanh niên trí thức Việt Nam đi vào cuộc Cách mạng Tháng Tám như thế nào? Blog tư liệu
  • Thủ công và thương mại Việt Nam đầu thế kỷ 20 Blog tư liệu
  • Đầu xuân thăm cảnh xứ Đông Blog tư liệu
  • Những cuộc thăm dò hòa bình: Vũ điệu mong manh dưới bảy lớp màn che Blog tư liệu
  • Sự sôi nổi thiết tha của dân chúng Việt Nam đối với nền độc lập hoàn toàn được một nhà nhiếp ảnh trong phái bộ quan sát Mỹ thu hết vào ống kính đem về Hoa Thịnh Đốn Blog tư liệu
  • Giới thiệu sách: Viet-Nam Witness, 1953-1966 Blog tư liệu
  • Với những kẻ đầu cơ, cuộc chiến thật tuyệt vời Blog tư liệu
  • Phóng sự ảnh của nhà báo Pháp: Bộ đội Bắc Việt tạo dáng trước ống kính Blog tư liệu
  • Vấn đề chủ quyền ở Hoàng Sa – Trường Sa theo hướng tiếp cận toàn bộ, toàn diện của lịch sử Việt Nam Blog tư liệu
  • Người Hoa ở miền Nam Việt Nam trước khi Pháp xâm lược [1] Blog tư liệu
  • Trang phục người dân An Nam Blog tư liệu
  • Con tem Điện Biên Phủ của Việt Nam và Pháp Blog tư liệu
  • Batavia trong mắt sứ thần Việt Nam Blog tư liệu

Nguy cơ can thiệp quân sự từ Hoa Kỳ trong giai đoạn đàm phán Hội nghị Genève 1954 và chiến lược của quốc gia này

Posted on 19/08/2025 By editor No Comments on Nguy cơ can thiệp quân sự từ Hoa Kỳ trong giai đoạn đàm phán Hội nghị Genève 1954 và chiến lược của quốc gia này

Césari Laurent[1]

Lê Hằng Nga dịch

Ngay sau chiến thắng của nhân dân ta ở Điện Biên Phủ, Pháp và Mỹ bước vào một ván cờ ngoại giao mang tính quyết định trong bối cảnh diễn ra Hội nghị Genève và cục diện tại Đông Dương chuyển sang tình thế mới. Tạp chí Phương Đông giới thiệu bản dịch bài viết “Nguy cơ can thiệp quân sự từ Hoa Kỳ trong giai đoạn đàm phán Hội nghị Genève và chiến lược của quốc gia này (1954)” của nhà sử học Césari Laurent phân tích chi tiết tình hình, đăng trên tạp chí “Vingtième Siècle, revue d’histoire” số 23, xuất bản năm 1989.

Ngay sau ngày Điện Biên Phủ sụp đổ, qua nhiều cuộc thương lượng tại Genève, người Mỹ yêu cầu Pháp chấp nhận họ can thiệp quân sự tại Đông Dương. Một “chiêu trò Gascon[2]” chăng?, Césari Laurent tự hỏi, khi ông chỉ ra nội dung thực sự của những cuộc thảo luận ấy lần đầu tiên. Đó là một cú hích nhỏ giúp người Pháp gây áp lực trong tiến trình đàm phán? Hay là một nước cờ do Ngoại trưởng Mỹ Foster Dulles sắp đặt để chuẩn bị thay thế ảnh hưởng của Pháp? Dù kế hoạch đó không được thực hiện, nó vẫn cho thấy sự khác biệt sâu sắc trong quan điểm giữa một cường quốc thực dân đang dần tàn mà ưu tiên hàng đầu là bảo vệ Liên hiệp Pháp; với Hoa Kỳ, khi ấy đang có uy tín quốc tế ở đỉnh cao, coi Đông Dương là vấn đề cốt lõi trong chiến lược ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản.

Tháng 4 năm 1954, khi Điện Biên Phủ đang bị vây hãm, Pháp và Mỹ đã bàn bạc về khả năng tiến hành một cuộc ném bom quy mô lớn quanh khu vực tập trung quân Pháp. Cuộc đàm phán đó chẳng đi tới kết quả nào, Điện Biên Phủ thất thủ ngày 7/5, đúng vào thời điểm Hội nghị về vấn đề Đông Dương khai mạc tại Genève. Trong suốt hội nghị, các chính phủ của Laniel (Pháp) và Eisenhower (Mỹ) lại tiếp tục đề cập đến khả năng Hoa Kỳ tham chiến, nhưng lần này không còn để giải cứu Điện Biên Phủ, mà nhằm giành chiến thắng dứt điểm trước Việt Minh. Bài viết này đề cập đến cuộc đàm phán lần thứ hai này giữa Pháp và Mỹ.

Các cuộc đàm phán có thể được xem xét dưới nhiều góc độ. Về mặt nội bộ chính trị của Pháp, chúng dẫn tới sự sụp đổ của Chính phủ Laniel ngày 12/6, và Mendès France lên nắm quyền. Thật vậy, dù nội dung chính xác của những cuộc đàm phán này còn chưa được công bố rõ, nhưng việc chúng tồn tại không còn là bí mật: một số tờ báo của Mỹ (New York Times) và các báo phổ biến ở châu Âu (Herald Tribune) đã đưa tin vào ngày 15/5. Trước một Quốc hội Pháp kiên quyết muốn Hội nghị Genève kết thúc chiến tranh ở Đông Dương, Mendès France đã giành được một lợi thế quyết định khi cáo buộc Bidault từ chối đàm phán với Việt Minh và tìm cách kéo Hoa Kỳ vào cuộc chiến.

Ngày 13/7/1954, khi Hội nghị Genève đang diễn ra, Ngoại trưởng MỹFoster Dulles bắt đầu chuyến thăm nhanh Thủ tướng Pháp Pierre Mendès France tại Paris. Ảnh chụp bởi Philippe Le Telier.

Mặt khác, không có gì đảm bảo rằng lời đe dọa từ phía Mỹ lại khiến các nhà ngoại giao thuộc khối xã hội chủ nghĩa trở nên mềm mỏng hơn. Thực tế, Việt Minh chưa bao giờ chấp nhận phương án chia vùng đóng quân kiểu “da báo”, vốn là quan điểm ban đầu của Pháp nhằm đan xen các vùng kiểm soát của hai bên. Về thỏa thuận giữa Pháp và Việt Minh, các cuộc đàm phán đang là bí mật, nội dung dựa trên việc phân chia các khu tập kết chung, liền một dải, chia đất nước thành các phần rõ rệt; kèm thêm việc tìm ra tiếng nói chung giữa phái đoàn Pháp và Trung Quốc. Hầu hết các tiến triển đó diễn ra trong nửa đầu tháng 6, thời điểm mà mối đe dọa can thiệp của Mỹ đã nhanh chóng mất đi trọng lượng thực tế.

Người ta cũng có thể xem sự kiện này như một dấu hiệu thể hiện tình trạng quan hệ Pháp – Mỹ vào thời kỳ cuối của cuộc chiến tại Đông Dương, và đây cũng là góc nhìn trong bài viết này. Từ đó, dẫn tới việc đặt câu hỏi về ý đồ của Bidault: liệu ông ta có thực sự muốn kéo dài chiến tranh vô thời hạn để tránh việc tập trung các vùng kiểm soát của Việt Minh hay chỉ đơn giản là muốn nhận được một lời đe dọa từ phía Mỹ để các nhà đàm phán trong khối chủ nghĩa xã hội từ bỏ ý định buộc Pháp phải đầu hàng sau thất bại ở Điện Biên Phủ? Trong khi Eisenhower và Dulles đã đặt ra những điều kiện mà họ biết là phía Pháp không thể chấp nhận được, và nếu quả thật Đông Dương là “chìa khóa then chốt” trong chiến lược ngăn chặn ảnh hưởng khối xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở Đông Nam Á như họ vẫn tuyên bố, thì làm sao để giải thích thái độ của họ?

Những bất đồng ban đầu về khả năng chia cắt Việt Nam

Khi Hội nghị Genève bắt đầu, ngày 26/4/1954, cả Pháp và Mỹ đều phản đối việc chia vùng rõ ràng ở Việt Nam. Tài liệu chỉ đạo NSC 5405 của Hội đồng An ninh Quốc gia Hoa Kỳ, lúc đó vẫn còn hiệu lực, cũng loại trừ khả năng thành lập một chính phủ liên hiệp có sự tham gia của Việt Minh, và không chấp nhận bất kỳ kết cục nào cho cuộc chiến ngoại trừ thành công của “kế hoạch Navarre”. Tài liệu này cho phép Hoa Kỳ can thiệp quân sự vào Đông Dương nhưng các điều kiện lại rất mơ hồ: chỉ cần viện trợ quân sự của Trung Quốc cho Việt Minh đạt mức mà theo đánh giá của phương Tây là đe dọa sự tồn tại của miền Bắc Việt Nam thì việc tấn công Trung Quốc có thể thực hiện. Nhưng sau thất bại ở Điện Biên Phủ, việc giữ vùng Bắc Việt trong khối phương Tây đã trở thành điều cấp thiết, trong khi Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa lại gia tăng viện trợ cho Việt Minh[3].

Trang đầu văn kiện NSC 5405: Ghi chú của Thư ký Hội đồng An ninh Quốc gia Mỹ ngày 16/1/1954 về chính sách hành động của Hoa Kỳ tại Đông Dương. Nguồn: Sách Hồ sơ Lầu Năm góc, tập 1, trang 434 – 443, xuất bản năm 1971

Tuy nhiên, văn kiện NSC 5405 không hẳn là một chính sách đã ấn định, mà đúng hơn, nó mô tả một giải pháp cho vấn đề ở Đông Dương phù hợp nhất với nguyện vọng từ phía Mỹ. Thật vậy, Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ Bedell Smith, người được Eisenhower giao nhiệm vụ chủ trì một ủy ban về Đông Dương, tuyên bố vào ngày 16/2 tại Thượng viện rằng chính sách của Hoa Kỳ đối với khu vực này vẫn chưa xác định rõ ràng. Smith đã đề cập đến khả năng hình thành một hiệp ước phòng thủ bao gồm: Thái Lan, Miến Điện, và có thể cả Campuchia cùng một phần của Việt Nam. Nhưng nếu ở Việt Nam các vùng chiếm đóng tập trung lại một nơi – một điều ngầm hiểu trong dự án này – xảy ra trong tương lai gần, thì theo Smith, kết quả ở khu vực Đông Nam Á sẽ là một thảm họa, bởi việc chuẩn bị cho hiệp ước phòng thủ ấy còn rất sơ khai[4].

Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ Walter Bedell Smith (giữa, phía trước) và phái đoàn Hoa Kỳ tại phiên họp ngày 8/5/1954 của Hội nghị Genève. Nguồn: Bettmann

Cũng theo hướng đó, bản báo cáo của Ủy ban Bedell Smith, được Hội đồng An ninh Quốc gia Hoa Kỳ xem xét vào ngày 6/4/1954, có trích dẫn NSC 5405 và khuyến nghị sử dụng mọi biện pháp gây áp lực kinh tế và chính trị để giữ cho Pháp tiếp tục chiến tranh, ngay cả khi điều ấy có thể đe dọa sự tồn tại của Chính phủ Laniel và khiến việc phê chuẩn Cộng đồng Quốc phòng Châu Âu gặp khó khăn. Tuy vậy, báo cáo cũng khuyến nghị:

  • Ngay lập tức tăng cường sự hợp tác giữa Campuchia và Thái Lan;
  • Thống nhất với Vương quốc Anh về các biện pháp nhằm giữ Malaysia, Miến Điện và Thái Lan trong khối phương Tây;
  • Về lâu dài, chuẩn bị một hiệp ước an ninh vùng viễn Đông, bao gồm cả những cường quốc châu Âu có thuộc địa ở Thái Bình Dương.

Như vậy, vào đúng thời điểm Hoa Kỳ tuyên bố không thể chấp nhận việc toàn bộ hay một phần Việt Nam rơi vào khối XHCN, thì họ cũng đồng thời chuẩn bị sẵn những biện pháp, để ngay khi việc đó xảy ra, họ có thể ngăn chặn những thắng lợi tiếp theo của phe xã hội chủ nghĩa ở Đông Nam Á[5].

Vì lẽ đó, từ phía Hoa Kỳ, việc can thiệp để ngăn Việt Nam thuộc quyền kiểm soát của Chính phủ Hồ Chí Minh chỉ là một phương án, không phải một quyết định được đưa ra chắc chắn. Lựa chọn này càng không chắc chắn vì Eisenhower được bầu lên với khẩu hiệu đưa các binh sĩ ở Triều Tiên về nước. Mà rõ ràng, nhiều nghị sĩ quan trọng trong Quốc hội Mỹ thuộc cả hai đảng, khi được Dulles tham khảo ý kiến không chính thức vào ngày 3/4, đã kiên quyết phản đối việc Mỹ tham gia vào một cuộc chiến tranh kiểu Triều Tiên thêm lần nữa, tức là cuộc chiến mà Mỹ phải cung cấp đến 90% quân số chiến đấu. Về phía lục quân Mỹ, họ cũng khẳng định rằng không thể giành chiến thắng ở Đông Dương chỉ với hải quân và không quân. Eisenhower và Dulles đều nhận thức rõ những giới hạn đối với quyền tự do hành động của họ, do Quốc hội từ chối trao quyền hành động tùy ý cho Tổng thống, và do nhu cầu phải dựa vào các đồng minh của Mỹ – trước hết là Pháp và các Quốc gia liên kết – để có được lực lượng bộ binh cần thiết cho cuộc can thiệp[6].

Cuối cùng, vấn đề bất đồng giữa Pháp và Mỹ về mục tiêu chiến tranh cũng góp phần làm suy yếu khả năng Mỹ tự động can thiệp. Eisenhower loại trừ khả năng Mỹ đơn phương can thiệp, vì điều đó khiến Hoa Kỳ đồng nhất với chủ nghĩa thực dân Pháp, từ đó làm giảm uy tín chính trị của Mỹ tại châu Á. Theo đó, bất kỳ cuộc can thiệp nào chỉ có thể diễn ra trong khuôn khổ một liên minh, gồm: Pháp, các quốc gia liên kết, Thái Lan, Philippines, Úc, New Zealand, và nếu có thể, cả sự đồng thuận từ Vương quốc Anh. Dulles cũng chia sẻ quan điểm này, và nghi ngờ người Pháp – lực lượng mà ông biết đã quá mệt mỏi vì chiến tranh – đang tìm kiếm một hình thức đầu hàng trá hình tại Genève. Vì vậy, ông không muốn cung cấp hỗ trợ quân sự cho Pháp, trừ khi Pháp sẵn sàng tiếp tục chiến đấu đến cùng để giành chiến thắng. Nếu không, Hoa Kỳ sẽ rơi vào tình thế trớ trêu: Họ đã biến Đông Dương thành biểu tượng cho Chiến tranh Lạnh rồi sau đó rút lui, điều này sẽ dẫn đến thất bại nghiêm trọng trong uy tín quốc tế. Thậm chí, vào ngay hôm trước khi chính thức đề xuất can thiệp với Đại sứ Pháp Henri Bonnet, Dulles vẫn còn do dự và bày tỏ sự lưỡng lự của mình với Eisenhower về việc thực hiện bước đi này[7].

Quang cảnh phiên họp cuối cùng của Hội nghị Genève ngày 20/7/1954, với Phó Thủ tướng Anh Anthony Eden ngồi ở bàn bên trái, Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai ngồi ở phía sau, Thủ tướng Pháp Pierre Mendès France ngồi bên phải, và Thứ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ Walter Bedell Smith ở phía trước. Nguồn: Bettmann

Bidault, cũng như Dulles, mong muốn tránh việc các vùng chiếm đóng quy về một nơi, nhưng vì những lý do khác với người Mỹ. Đối với Hoa Kỳ, rốt cuộc, điều không thể chấp nhận được là việc một vùng lãnh thổ mới rơi vào tay cộng sản, bất kể nó ở đâu trên thế giới. Ngược lại, theo quan điểm của Bidault, chính việc mất miền Bắc Việt Nam mới là điều đe dọa sự tồn tại của Liên hiệp Pháp. Ngày 23/2/1954, trước Hội đồng Tối cao của Liên hiệp Pháp. Bidault cam kết chỉ đàm phán với đối phương sau khi đạt được một thỏa thuận “toàn diện và định sẵn” với chính quyền Quốc gia Việt Nam. Ông hy vọng nhờ vậy sẽ giành được sự gắn bó thực sự của Quốc gia Việt Nam với Liên hiệp Pháp theo mô hình liên bang, quy định bởi Hiến pháp năm 1946, nhưng ngày càng bị các thành phần chống cộng người Việt chất vấn và phản đối. Bidault cũng lo ngại rằng nếu Pháp không tham khảo ý kiến của chính quyền Quốc gia Việt Nam trước Hội nghị Genève thì bên này có thể tiếp cận với Việt Minh trong một liên minh chống Pháp, với mục tiêu tránh để đất nước chia cắt. Đối với ông, mặt tiền Thái Bình Dương là “thiết yếu cho vị thế của một cường quốc lớn”. Hơn nữa, nếu Pháp “buông bỏ Đông Dương” thì toàn bộ phần còn lại của đế quốc thuộc địa cũng sẽ “buông bỏ nước Pháp”. Chính từ đó mà bản công hàm do Bảo Đại bị thúc ép ký ngày 6/5/1954 khẳng định rằng: “Không có gì đi ngược lại ý định của Chính phủ Pháp hơn việc chuẩn bị thành lập – làm tổn hại đến sự thống nhất của Việt Nam – hai quốc gia có chủ quyền quốc tế riêng biệt”[8].

Ngày 1/5/1954, Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ Bedell Smith (cầm áo khoác trên tay, xung quanh là vệ sĩ) bất ngờ tới thăm Hoàng đế Bảo Đại đang cư trú tại Khách sạn La Verniaz ở Pháp. Ảnh chụp bởi Jack Galofaro.

Tuy nhiên, có thể nghi ngờ việc Bidault sẵn sàng chấp nhận một cuộc can thiệp của Mỹ trong bất kỳ điều kiện nào chỉ để tránh chia cắt. Ngày 11/5, ông đánh giá tích cực đề xuất của Việt Minh (đưa ra ngày hôm trước) về việc tạm thời phân chia quyền quản lý Việt Nam giữa chính quyền Bảo Đại và Việt Minh, dựa trên các vùng chiếm đóng quân hiện có, và thừa nhận rằng kế hoạch này hàm chứa nguy cơ dẫn đến việc chia cắt. Cũng trong ngày hôm đó, ông đề nghị chính phủ thăm dò ý định của Hoa Kỳ, trong trường hợp hội nghị thất bại, dù Pháp có muốn tiếp tục chiến tranh sau đó hay không. Cuối cùng, ngay từ ngày 30/4, ông đã nói với Dulles rằng những lời đe dọa kèm theo khả năng can thiệp quân sự từ phía Mỹ chỉ nhằm củng cố vị thế của Pháp. Kết luận rằng Bidault, cũng như Thứ trưởng Ngoại giao Maurice Schumann, Thủ tướng Laniel và Tổng Tham mưu trưởng liên quân – Tướng Ely, đều mong muốn tránh việc tập trung các vùng kiểm soát xảy ra, nhưng không cần dùng tới cứu viện, và điều kiện là nhận được sự đảm bảo quốc tế bảo hộ các nước Campuchia, Lào, và miền Nam Việt Nam[9].

Phần lớn những người trong nội các thể hiện thái độ không bằng lòng với việc theo đuổi các chiến dịch quân sự. Rene Pleven (Bộ Quốc phòng) tỏ ý nhẹ nhàng hơn với việc chia cắt tại vĩ tuyến 18. Paul Reynaud (Hội đồng Bộ trưởng Pháp) đánh giá rằng miền Bắc Việt Nam sẽ là nấm mồ của các đội quân viễn chinh, và đề xuất nên rút về Nam Kỳ, nơi giàu có bậc nhất của Việt Nam và cũng là nơi có thiện cảm nhất với nước Pháp rồi để mặc cho Mỹ tự mình tiếp tục chiến tranh ở đây nếu họ muốn. Paul Reynaud và Edgar Faure (Bộ Tài chính) đều từ chối tiếp tục chiến dịch nếu Hoa Kỳ đồng hành, ngay cả khi Hội nghị Genève không thành công[10].

Về vấn đề chia cắt, các lập trường trong Chính phủ Pháp trải dài từ tán thành đầy nhiệt huyết đến thái độ chấp thuận đó là giải pháp cuối cùng. Những thông tin cơ quan tình báo Pháp cung cấp vào đầu hội nghị cũng không khuyến khích việc kiên quyết từ chối chia cắt trong thời gian dài. Họ cho biết, một mặt, Vương quốc Anh, Liên Xô và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đều đặt mục tiêu chia cắt Việt Nam tại Genève, trong khi phía Việt Minh còn lưỡng lự giữa phương án chia cắt và thành lập chính phủ liên hiệp; mặt khác, khối XHCN đặc biệt lo ngại khả năng Mỹ can thiệp vào Đông Dương. Bằng cách khua lên mối đe dọa về sức mạnh của Mỹ, Pháp có thể đạt được một phương án chia cắt được tất cả các bên chấp thuận – như một giải pháp “ít nhất có thể chấp nhận được”. Tuy nhiên, tại Paris cũng như Washington, việc sử dụng sức mạnh đó không hề được coi là điều tất yếu[11].

Đề nghị từ phía Mỹ

Sáng kiến đề nghị can thiệp đến từ Dulles. Ông ta đã nêu ra khả năng này với Bidault vào ngày 3/5, ngay trước khi rời Genève, và triệu tập Đại sứ Bonnet vào ngày 8/5 – tức ngay sau khi Điện Biên Phủ thất thủ – để chính thức trình bày đề xuất. Ngay từ đầu, Dulles đã cảnh báo rằng đề xuất này sẽ kèm theo những điều kiện cụ thể[12].

Bề ngoài có vẻ thẳng thắn, nhưng hành động của Dulles thực chất nhằm thăm dò ý muốn của Pháp trong việc tiếp tục cuộc chiến, từ đó Mỹ sẽ quyết định đường hướng hành động của mình. Eisenhower, Dulles và các Tham mưu trưởng quân đội Mỹ lo ngại rằng khối XHCN sẽ kéo dài đàm phán tại Genève để Việt Minh có thời gian tái bố trí lực lượng ở Bắc Kỳ, rồi phát động cuộc tấn công cuối cùng. Dulles xem đề xuất của mình như một giải pháp thay thế cho đàm phán. Nếu chấp nhận các điều kiện nghiêm ngặt của Mỹ, Pháp sẽ chứng tỏ tinh thần chiến đấu – yếu tố giúp mang lại chiến thắng. Ngược lại, nếu Pháp ngay lập tức từ chối, các nhà đàm phán của họ tại Genève, vẫn còn giữ hi vọng vào sự can thiệp của Mỹ, sẽ không bị ép buộc phải chấp nhận một lệnh ngừng bắn tuyệt vọng, thiếu bảo đảm quốc tế[13].

Ngày 16/7/1954, Tổng thống Mỹ Eisenhower với vẻ mặt nghiêm trọng sau khi nghe báo cáo của Ngoại trưởng John Foster Dulles về cuộc đàm phán “ba nước lớn” gần đây về Đông Dương tại Paris. Nguồn: Bettmann

Kế hoạch của Dulles mang tính mơ hồ. Xét về cá nhân, Ngoại trưởng Mỹ có lẽ thực sự muốn can thiệp. Nhưng phía Pháp cũng có thể lợi dụng đề xuất này như một đòn tâm lý nhằm buộc các đoàn đàm phán khối XHCN phải nhượng bộ ở Genève. Dulles chỉ đồng ý can thiệp nếu điều đó đảm bảo chiến thắng, và ông biết rõ tình hình quân sự ở miền Bắc Việt Nam đang xấu đi nhanh chóng. Để làm cho Pháp hiểu rõ rằng can thiệp quân sự là nhằm kết thúc đàm phán, Dulles lẽ ra nên đặt ra thời hạn chót để họ đưa ra câu trả lời. Ngược lại, nếu mục đích chỉ là hù dọa khối XHCN, hoặc giúp Pháp sau khi thừa nhận thất bại tại Genève, thì ông lẽ ra nên để Pháp tự lựa chọn thời điểm yêu cầu Mỹ can thiệp.

Tuy nhiên, Dulles hiểu rằng Pháp không chấp nhận một đề xuất kèm thời hạn chót, và càng không thể tự mình khơi mào phá vỡ đàm phán tại Genève. Điều đó, như cả Dulles và Bidault đều biết, sẽ dẫn đến sự sụp đổ của nội các Laniel. Vì vậy, Dulles đã trình bày đề xuất với Đại sứ Bonnet theo cách mập mờ, như thể đó là phương án mà Pháp có thể tận dụng sau khi thấy rõ sự bế tắc trong việc thay đổi điều kiện của phía XHCN tại bàn đàm phán. Ở dạng này, đề xuất của Mỹ trở thành giải pháp dự phòng mà Bidault mong muốn, trong trường hợp hội nghị thất bại. Laniel đồng ý xem xét các điều kiện mà Mỹ đưa ra, vốn đã được Eisenhower phê chuẩn và được gửi cho ông cũng như Thứ trưởng Ngoại giao Maurice Schumann vào ngày 14/5. Do Bidault vẫn còn ở Genève, Laniel và Schumann đã chủ trì phần lớn các cuộc đàm phán về can thiệp tại Paris cùng đại sứ Mỹ Dillon[14].

Những điều kiện Mỹ đưa ra gồm:

1. Một yêu cầu trang trọng (trong trường hợp của Pháp là dưới hình thức một cuộc bỏ phiếu tại quốc hội) nhằm đề nghị Hoa Kỳ can thiệp, do Pháp và các quốc gia liên kết cùng đưa ra.

2. Thái Lan và Philippines tham gia vào chiến dịch can thiệp; khả năng cao có sự tham gia của Úc và New Zealand ; Vương quốc Anh chấp thuận chiến dịch này.

3. Nhanh chóng trình bày chiến dịch trước Liên hợp quốc, chẳng hạn, dưới hình thức một kiến nghị do Thái Lan, Campuchia và Lào đệ trình, yêu cầu thành lập một ủy ban quan sát, với lập luận rằng các nước này đang bị đe dọa bởi sự xâm nhập.

4. Một cam kết từ phía Pháp đảm bảo nền độc lập hoàn toàn cho các quốc gia liên kết, bao gồm quyền họ được rút khỏi Liên hiệp Pháp bất cứ lúc nào, chỉ cần theo ý muốn của riêng họ.

5. Cam kết của Pháp sẽ không rút quân trước khi chiến dịch can thiệp kết thúc, để các lực lượng Mỹ – chủ yếu là không quân và hải quân – có thể bổ sung vào hệ thống quân sự hiện có của Pháp, chứ không thay thế nó.

6. Một thỏa thuận về việc huấn luyện lực lượng bản địa, do Hoa Kỳ đảm nhận, cũng như về tổ chức bộ chỉ huy. (Hoa Kỳ dự kiến sẽ giữ lại cho Pháp vị trí Tổng tư lệnh, nhưng dành quyền chỉ huy các lực lượng không quân và hải quân – vốn là mũi nhọn tấn công chính. Eisenhower sẵn sàng để Pháp giữ các vị trí có tính tượng trưng và thể diện, miễn là quyền lực nằm trong tay Hoa Kỳ)[15]

Ngày 1/7/1954, ngay sau cuộc gặp với Ngoại trưởng Mỹ John Foster Dulles, Thủ tướng Pháp Pierre Mendes France lên máy bay trở về Genève. Ảnh chụp bởi Francois Pages

Các điều kiện này phản ánh sự nghi ngờ của Mỹ đối với Pháp, vốn bị tình nghi là muốn rút khỏi cuộc chiến sau khi lôi kéo đồng minh vào, và nhất là cho thấy mối bận tâm sâu sắc của Mỹ trong việc bảo vệ thể diện quốc gia. Họ muốn – một mặt tiến hành chiến dịch cho đến khi chiến thắng, mặt khác định hình lại tính chất cuộc chiến như một phần cuộc chiến chống chủ nghĩa cộng sản, xóa bỏ tính thực dân của Pháp. Việc viện dẫn Liên hợp quốc (LHQ) sẽ giúp Mỹ tạo ra sự tương đồng giữa cuộc chiến ở Đông Dương và chiến tranh Triều Tiên, cả hai đều được trình bày như những phản ứng chính đáng của cộng đồng quốc tế trước các cuộc xâm lược vô cớ. Liên quan tới điểm này, cần lưu ý rằng ngoại giao Mỹ đã phải gây sức ép với Thái Lan để nước này nộp đơn khiếu nại lên LHQ. Thật vậy, khi Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ Bedell Smith gặp Ngoại trưởng Thái Lan tại Genève vào ngày 15/5, ông không thấy có bất kỳ ý định nào từ phía Thái Lan về việc kêu gọi LHQ can thiệp. Smith liền gợi ý đúng lúc rằng Hoa Kỳ đang cân nhắc việc thiết lập các căn cứ quân sự tại Thái Lan. Trước thông tin đó, vị bộ trưởng Thái mềm mỏng hẳn và hứa sẽ tham khảo ý kiến chính phủ mình[16].

Ngày 26/4/1954, Hoàng tử Wan Waithayakon, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Thái Lan, chủ trì phiên họp khai mạc của hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao tại Genève.

Cuối cùng, người Mỹ hoàn toàn dự định rằng nếu cần thiết sẽ mở rộng cuộc chiến sang Trung Quốc. Một khi được Quốc hội Pháp cam kết tham gia cho tới khi giành chiến thắng cuối cùng, sẽ không thể tránh việc nước Pháp cuốn vào việc mở rộng này. Kế hoạch chiến tranh được các Tổng tham mưu trưởng Hoa Kỳ trình lên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng vào ngày 20/5, dự kiến sử dụng bom nguyên tử ở Đông Dương, hoàn toàn dựa trên các nhu cầu quân sự chứ không phải vì lý do chính trị. Các chiến dịch trên bộ sẽ được giao hoàn toàn cho quân đội của các quốc gia liên kết và quân viễn chinh Pháp[17].

Một khuyến nghị như vậy xuất phát từ học thuyết trả đũa ồ ạt, quy định theo chỉ thị NSC 162/2 ngày 30/10/1953 của Hội đồng An ninh Quốc gia Hoa Kỳ (NSC). Chiến lược này nhằm giảm bớt ngân sách quốc phòng của Hoa Kỳ, dựa trên nguyên tắc sử dụng lực lượng Mỹ như một lực lượng dự bị trung tâm cơ động, sở hữu bom nguyên tử như một vũ khí chiến thuật tương đương với vũ khí thông thường. Các đồng minh có trách nhiệm tăng cường hệ thống phòng thủ riêng của họ và cung cấp quân bộ binh. Ngày 9/12/1953, các Tổng tham mưu trưởng đã khuyến nghị chuẩn bị các kế hoạch chiến tranh dựa trên lời đe dọa trả đũa ồ ạt nhằm vào Liên Xô hoặc Trung Quốc trong trường hợp bị tấn công nghiêm trọng, cũng như việc sử dụng vũ khí hạt nhân chiến thuật hoàn toàn dựa trên nhu cầu quân sự, trong cả trường hợp xung đột cục bộ hay chiến tranh tổng lực. Vì vậy, khuyến nghị ngày 20/5 hoàn toàn phù hợp với học thuyết quân sự chính thức của Hoa Kỳ. Tuy nhiên, nó cũng hàm chứa một nguy cơ lớn, và tất cả các cơ quan tình báo Mỹ đồng tình: khả năng Trung Quốc sẽ công khai can thiệp ở Đông Dương[18].

Trong trường hợp viễn cảnh này xảy ra, theo chỉ thị của NSC, Eisenhower và Dulles đã chuẩn bị các đợt oanh tạc nhắm vào các sân bay và tuyến liên lạc nằm trong lãnh thổ Trung Quốc, vốn được cho là đang tiếp tế cho hành động gây hấn; thậm chí là một cuộc đổ bộ lên đảo Hải Nam, vốn sẽ được chuyển giao cho phe Trung Hoa Dân Quốc. Người ta thừa nhận rằng những chiến dịch này mang nguy cơ leo thang thành một cuộc chiến tranh tổng lực[19].

Nếu Eisenhower và Dulles hoàn toàn không có ý định chuyển sang một cuộc xung đột toàn cầu ngay từ đầu thì các Tổng tham mưu trưởng của họ lại ít thận trọng hơn. Họ cho rằng Đông Dương không có các mục tiêu quân sự quyết định, nên không muốn điều động quá nhiều lực lượng Mỹ tới đây. Nhưng họ cũng tin rằng nếu Đông Dương trở thành một phần của khối XHCN, thì về lâu dài toàn bộ Đông Nam Á sẽ đi theo hướng này, thông qua sự thỏa hiệp của các chính phủ địa phương. Với giả định Đông Dương tuột khỏi tay, ngày 21/5, họ đề xuất rằng trong tương lai, bất kỳ bước tiến mới nào của phe cộng sản ở Đông Nam Á đều phải đáp trả bằng các cuộc tấn công vào tiềm lực quân sự của Trung Quốc. Nói cách khác, họ ủng hộ một chiến lược chủ động tấn công chống lại Trung Quốc. Về phần mình, Đô đốc Radford, Tổng tham mưu trưởng liên quân, thậm chí còn đề xuất phát động một cuộc chiến tranh nguyên tử phủ đầu chống lại Trung Quốc và coi đây là dịp lý tưởng để thực hiện điều đó[20].

Biên bản ghi nhớ ngày 21/5 đơn thuần là sự phát triển triệt để của học thuyết trả đũa ồ ạt. Nhưng vì nhận thức rõ việc rò rỉ kế hoạch này có thể khiến các đồng minh của Hoa Kỳ, cả ở châu Á lẫn châu Âu, lo ngại sâu sắc nên vào ngày 28/5, Tổng thống Eisenhower và Ngoại trưởng Dulles đã quyết liệt nhấn mạnh với các tướng lĩnh của mình rằng chỉ được phản ứng bằng cách tấn công vào các phương tiện quân sự trực tiếp phục vụ cho cuộc gây hấn. Chỉ sau đó, nếu “bài học” không có tác dụng thì mới hành động mạnh mẽ hơn. Tuy nhiên, dù các chiến dịch do Tổng thống và Ngoại trưởng Mỹ dự kiến không ngay lập tức kéo theo một cuộc chiến tranh toàn diện, chúng vẫn đặt nước Pháp vào nguy cơ kéo dài quay lại một cuộc chiến kéo dài, tiêu hao ở Đông Dương, thậm chí là đối đầu với Trung Quốc[21].

Bế tắc trong thỏa thuận để đạt được điều kiện của Mỹ

Ngày 14/5/1954, khi nhận được các điều kiện do phía Mỹ đưa ra, Thủ tướng Pháp Laniel và Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Schumann nêu ba điểm phản đối:

1. Họ yêu cầu đảm bảo rằng không quân Hoa Kỳ sẽ can thiệp ngay lập tức – thậm chí trước cả khi hình thành liên minh phương Tây – nếu máy bay Trung Quốc tấn công vào khu vực miền Bắc, nơi quân viễn chinh Pháp không có hệ thống phòng không.

2. Trong khuôn khổ liên minh sắp thành lập, họ yêu cầu cử thủy quân lục chiến Hoa Kỳ sang Đông Dương. Thật vậy, Quốc hội Pháp không bao giờ chấp nhận một cuộc can thiệp của Mỹ mà chỉ giới hạn ở hải quân và không quân. Theo cách nói của Paul Reynaud (Hội đồng Bộ trưởng Pháp), một sự phân công như vậy sẽ biến quân viễn chinh Pháp thành “bộ binh hứng chịu cái chết dưới làn bom Mỹ” (Bidault bổ sung, “cùng với người Xiêm và người Phi”). Ngược lại, việc triển khai lực lượng thủy quân lục chiến – một đơn vị bộ binh có thể được sử dụng mà không cần Quốc hội Mỹ thông qua – sẽ cho phép nhiệm vụ chia sẻ công bằng hơn giữa các đồng minh mà không khiến người dân Mỹ lo ngại về một “chiến tranh Triều Tiên mới” xảy ra trong năm bầu cử Quốc hội.

3. Cuối cùng, họ phản đối điều khoản cho phép các quốc gia liên kết có quyền rời khỏi Liên hiệp Pháp bất cứ lúc nào, điều mà Pháp cho là vi Hiến[22].

Trong khoảng giữa ngày 14/5 đến 11/6, Mỹ chỉ có nhượng bộ duy nhất liên quan đến cách công khai điều khoản ly khai [khỏi Liên hiệp Pháp], mà theo người Pháp thì điều đó vô lý và làm mất mặt một cách không cần thiết. Ngày 26/5, để làm vừa lòng phía Pháp, Dulles đồng ý thay điều kiện đó bằng một cam kết quốc tế và công khai về nền độc lập và chủ quyền của các quốc gia liên kết như được ghi ở Điều 1 của Hiệp ước Matignon ký ngày 4/6/1954. Về bản chất, Dulles không nhượng bộ nhiều, bởi hiệp ước này ngầm công nhận quyền ly khai, vì mối liên hệ giữa hai bên được thiết lập thông qua một “hợp đồng”, nên có thể chấm dứt nếu một bên đơn phương từ bỏ nghĩa vụ cam kết[23].

Ngày 13/7/1954, Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ John Foster Dulles được Bộ trưởng Ngoại giao Anh Anthony Eden (trái) và Thủ tướng Pháp Pierre Mendes France (giữa) chào đón trước cuộc họp ba bên để vạch ra chính sách chung cho các cuộc đàm phán cuối cùng tại hội nghị Genève

Trong thời gian đó, phía Pháp đã rất nỗ lực để giành được sự ủng hộ từ Mỹ, nhưng vẫn không thành công. Việc lấy vỏ bọc Liên hợp quốc cho chiến dịch – thông qua đơn kiện của Thái Lan gửi lên Hội đồng Bảo an – không gặp phản đối nào. Từ ngày 28/5, đại diện Pháp tại Liên hợp quốc đã tham gia vào quy trình này. Dù vậy, Bidault không mặn mà gì với việc mở ra một cuộc tranh luận tại Đại hội đồng Liên hợp quốc về chủ nghĩa thực dân của Pháp. Ông thà để cho Anh Quốc – vốn hoàn toàn phản đối can thiệp quân sự – âm thầm phá hoại việc xem xét đơn kiện của Thái Lan[24].

Việc người Mỹ huấn luyện quân đội bản xứ đã được chấp nhận ngay từ đầu. Bidault rất chú trọng điều này nhằm khôi phục tinh thần cho quân đội – vốn đã lung lay sau thất bại ở Điện Biên Phủ – cũng như để đưa càng nhiều vũ khí quân sự Mỹ vào Nam Việt Nam trước khi đình chiến, trong trường hợp có chia cắt. Tuy nhiên, ý muốn kiểm soát chiến lược của Mỹ ở Đông Dương đã vấp phải kháng cự. Tướng Ely không chấp nhận việc Pháp phải chia sẻ với Hoa Kỳ, và vào ngày 31/5, các tướng lĩnh Pháp được thông báo rằng sẽ có việc tích hợp sĩ quan Mỹ vào các bộ tham mưu của quân đội Pháp[25].

Dù có những nhượng bộ ấy, thỏa thuận vẫn không thể đạt được những điểm then chốt. Trước hết, Quốc hội Pháp muốn ngừng chiến tranh mà không chiến đấu, đề nghị của Dulles không đáp ứng được yêu cầu của các bộ trưởng Pháp. Họ cần một lời đe dọa can thiệp ngay lập tức nhằm thúc đẩy hội nghị đạt kết quả. Dulles đưa ra một cam kết có điều kiện rằng chỉ thực hiện khi đàm phán thất bại hoàn toàn[26].

Về vấn đề thủy quân lục chiến, ngày 21/5, Schumann được thông báo rằng Hoa Kỳ không loại trừ khả năng sử dụng họ, nhưng chỉ căn cứ vào nhu cầu quân sự, chứ không phải để đáp ứng vấn đề danh dự của Pháp. Do đó, không có lời hứa nào được đưa ra – và điều này là dễ hiểu: như đã thấy, Bộ Tổng tham mưu Mỹ không có ý định đưa lực lượng bộ binh của mình vào Đông Dương. Eisenhower và Dulles lại có dự định đưa một đơn vị nhỏ đến đó, nhưng chỉ để bảo vệ các căn cứ được hải quân và không quân Mỹ sử dụng chứ không tham gia chiến đấu[27].

Cuối cùng, những nhà đàm phán phía Pháp hiểu rằng quyết tâm chiến đấu đến thắng lợi cuối cùng của Mỹ có thể kéo dài và mở rộng cuộc chiến. Do đó, họ muốn có cho mình những lối thoát. Ngày 28/5, Đại sứ Mỹ Dillon đưa ra một nhượng bộ mang tính hình thức: theo đà phát triển của quân đội bản xứ, các lực lượng của Pháp và các nước không thuộc Đông Dương tham gia can thiệp sẽ rút dần khi tình hình quân sự cho phép. Phái đoàn Pháp ở Genève ngày 1/6 đã phản ứng lại bằng một điều khoản bao trùm mọi cuộc rút quân: tùy theo nghĩa vụ quốc tế, nhu cầu phòng thủ ở chính quốc và các nghĩa vụ đối với thành viên của Liên hiệp Pháp hoặc những nước bảo hộ, Pháp sẽ duy trì nỗ lực của mình ở Đông Dương. Khi điều khoản dự phòng này được trình bày vào ngày 5/6, Thứ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ Bedell Smith đã phớt lờ nó ngay lập tức[28].

Vì vậy, Hoa Kỳ chỉ có thể ghi nhận sự thiếu nhiệt tình của Pháp trong việc chấp nhận đề nghị của họ. Mong muốn được Schumann lặp lại vào ngày 28/5 – được biết thái độ của Mỹ nếu có không kích của Trung Quốc vào miền Bắc Việt Nam trước khi thành lập liên minh phương Tây đã góp phần làm cho Dulles quyết định rút lại đề nghị của mình.

Yêu cầu này thực ra đã được đưa ra hai tuần trước đó, nhưng trong một bối cảnh khác. Ngày 14/5, Pháp yêu cầu Mỹ – như một biểu hiện thiện chí – đáp ứng mong muốn mà họ đã đưa ra suốt nhiều năm. Nhưng vào ngày 28, như Dillon đã báo cho Dulles, Pháp đưa ra yêu cầu để đối phó với một nguy cơ cụ thể: một vụ ném bom Hải Phòng từ máy bay xuất phát ở đảo Hải Nam có thể phá hỏng cảng đến mức không thể sơ tán quân viễn chinh[29].

Do đó, các kế hoạch quân sự của Pháp đã hé lộ khả năng chấp nhận chia cắt. Từ ngày 5/5, các Tổng tham mưu trưởng Pháp đã chỉ ra rằng Việt Minh đang hoạt động ở miền Bắc Việt Nam quá mạnh, không thể cho phép một giải pháp quân sự – ngay cả với sự hỗ trợ ồ ạt từ đồng minh – và dự đoán rằng Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa sẽ tăng cường hỗ trợ cho Việt Minh nếu Hội nghị Genève thất bại. Họ đã khuyên nên tìm một lối thoát chính trị cho cuộc chiến. Tương tự, nhận thấy không thể thuyết phục Quốc hội gửi quân sang Đông Dương trừ khi có sự đổ vỡ rõ ràng tại Genève do khối xã hội chủ nghĩa gây ra, Ủy ban Quốc phòng Quốc gia Pháp họp ngày 14 và 15/5 đã chấp thuận nguyên tắc phòng thủ ở phía nam vĩ tuyến 18 và ở khu vực châu thổ miền Bắc thì tập hợp lại lực lượng, sẽ rút dần về phía biển khi cần thiết. Cuối cùng, sau chuyến công tác ngày 26/5 tại Đông Dương, các tướng Ely, Salan và Pelissier đã báo cáo với Ủy ban Quốc phòng Quốc gia rằng tương quan lực lượng nghiêng về phía Việt Minh từ ngày 15/6. Người ta dự đoán từ thời điểm này sẽ có một cuộc tổng tấn công vào châu thổ, mà lực lượng hiện có dưới quyền tướng Navarre – Tư lệnh ở Đông Dương, không đủ sức ngăn chặn. Trước đó, Việt Minh đã đề xuất tập hợp lực lượng quân sự trong các vùng rộng lớn và liên tiếp nhau[30].

Trong bối cảnh Pháp đang lùi bước này, một động thái tỏ sự đoàn kết Pháp – Mỹ có thể khiến Việt Minh lo ngại và giảm yêu sách tại Genève. Nó cũng cho phép Bidault thử lần cuối để tránh việc các vùng chiếm đóng tập trung lại cùng nhau. Và cũng sẽ giúp Quốc hội Pháp kêu gọi Hoa Kỳ can thiệp. Vì vậy, ngày 28/5, Schumann đã đề xuất với Dillon thỏa thuận sau: Pháp sẽ tăng cường bố trí quân ở vùng châu thổ và sẽ gửi lính nghĩa vụ sang Đông Dương; đổi lại, Eisenhower yêu cầu được phép sử dụng không quân Mỹ chống lại không quân Trung Quốc tại miền Bắc Việt Nam, ngay cả khi liên minh phương Tây chưa hình thành[31].

Người Mỹ trong giả định do Schumann nêu ra đã quyết định rằng họ sẽ phản ứng bằng cách ném bom các mục tiêu quân sự Trung Quốc. Ý định này phù hợp với chỉ thị NSC 5405 và Eisenhower cũng như Dulles đã nhiều lần nhắc tới điều này vào cuối tháng 5, đầu tháng 6 – cả trong nội bộ Mỹ lẫn với các đại sứ thuộc khối Thịnh vượng chung. Nhưng Dulles đã cố ý từ chối thông báo kế hoạch của mình cho Schumann ngày 31/5, và trả lời rằng trong trường hợp Pháp đưa ra, Hoa Kỳ sẽ chỉ hành động tùy thuộc vào hoàn cảnh và sau khi có sự đồng thuận từ Quốc hội. Quả thật, Dulles lập luận, Hoa Kỳ đã công khai cảnh báo Trung Quốc trước đây rằng họ sẽ coi bất kỳ hành động xâm lược mới nào của Trung Quốc là mối đe dọa đối với an ninh của chính nước Mỹ. Nếu chống lại một cuộc xâm lược như vậy thì là để bảo vệ lợi ích của chính họ, và quyết tâm đó không liên quan gì đến Pháp. Vì vậy, Dulles coi yêu cầu của Schumann như một sự can thiệp vào chính sách của Mỹ và là một bằng chứng nữa cho thấy sự do dự của Pháp trong việc quốc tế hóa xung đột. Do đó, ông không giải thích cho Schumann lý do tại sao mình lại từ chối yêu cầu đó[32].

Thứ trưởng Ngoại giao Pháp Maurice Schumann (ảnh chụp khoảng năm 1950). Ảnh: Keystone France

Cuối cùng, Dulles cũng nhận thức rõ mức độ suy yếu nghiêm trọng của tình hình quân sự tại miền Bắc cùng với ảnh hưởng của Robert Bowie – Giám đốc Ban hoạch định chính sách của Bộ Ngoại giao – ông dần làm quen với viễn cảnh các vùng chiếm đóng sẽ dần tập trung lại một nơi.

Ngày 31/5, Hoa Kỳ chính thức nhận thông báo về việc quân đội Pháp rút lui khỏi miền Bắc Việt Nam, cũng như việc không có bất kỳ kế hoạch tấn công nào liên quan đến quân viễn chinh Pháp. Ngày 1/6, toàn bộ các cơ quan tình báo của Mỹ hoàn tất bản đánh giá về khả năng quân sự của Việt Minh và Trung Quốc tại Đông Dương, và đưa ra dự đoán rằng ngay cả trong trường hợp Mỹ can thiệp quy mô lớn và chiến đấu đến khi thắng lợi thì vẫn phải đối mặt với cuộc chiến du kích kéo dài của Việt Minh. Ngày 3/6, tại Hội đồng An ninh Quốc gia, Allen Dulles – em trai của Ngoại trưởng và là Giám đốc CIA – nhận định rằng sự sụp đổ tại miền Bắc Việt Nam là điều sắp xảy ra. Còn Bowie, tin chắc rằng Pháp sẽ chấp nhận việc tập trung các vùng chiếm đóng, lập luận rằng Hoa Kỳ sẽ chính thức phản đối điều này. Tuy nhiên, ông nói thêm, thực chất, sau đó Hoa Kỳ sẽ buộc phải bảo vệ khu vực Đông Nam Á phía nam đường phân chia, và như vậy sẽ phải công nhận việc các vùng chiếm đóng tập trung lại trên thực tế[33].

Chắc chắn rằng lập luận của Bowie đã gây ấn tượng với Dulles, người mà đến lúc đó vẫn gắng hết sức để tránh tình trạng tập trung các vùng chiếm đóng xảy ra. Hơn nữa, ngày 4/6, đại sứ Úc tại Washington thông báo với Ngoại trưởng rằng nước ông sẽ không chiến đấu ở Đông Dương. Dù lập trường phản đối can thiệp của Anh đã rõ, nhưng thông tin từ Úc khiến ý tưởng biến cuộc can thiệp thành một cuộc “thập tự chinh” hoàn toàn sụp đổ. Dulles trả lời rằng Hoa Kỳ sau một lời phản đối mang tính hình thức có thể chấp nhận sự tồn tại lâu dài của hai quốc gia Việt Nam. Cùng ngày hôm đó, Dulles gửi điện cho Dillon nói rằng, một khi chiến thuật của Laniel (với mục tiêu khiến Quốc hội Pháp kêu gọi sự giúp đỡ từ Hoa Kỳ) được biết và chấp thuận tại Washington thì Mỹ sẽ tiếp tục hành động, nếu tình hình lúc đó vẫn còn giá trị. Lúc này, Dulles đòi hỏi Pháp một điều không thể: một cam kết vô điều kiện, như một điều kiện tiên quyết cho đảm bảo từ phía Mỹ – vốn chỉ là giả định. Trên thực tế, điện tín này tương đương với việc Hoa Kỳ rút lại đề nghị của mình mà không báo trước, và Pháp đã hiểu đúng như vậy[34].

Ngày 8 tháng 6, Schumann được thông báo về bức điện của Dulles, và ngày 11, phái đoàn Pháp tại Genève cũng được biết. Cũng trong ngày 11, Dulles phát biểu tại Los Angeles, nêu rõ những điều kiện (chính là những điều kiện đã được thông báo cho Pháp vào ngày 14 tháng 5 và sẽ sớm được cả thế giới biết đến) mà theo đó Hoa Kỳ sẽ xem xét việc tham gia vào cuộc chiến tranh Đông Dương. Ông cũng làm rõ rằng, bất kỳ sự can thiệp nào của Trung Quốc vào bán đảo Đông Dương sẽ lập tức dẫn đến sự đáp trả của Mỹ[35].

Bidault bị sốc trước sự tiết lộ này, nhất là vì trong suốt cuộc đàm phán, Hoa Kỳ luôn yêu cầu Pháp giữ bí mật. Ngày 16/6, ông viết thư, chỉ thị cho Đại sứ Bonnet phải phản đối với Bộ Ngoại giao Mỹ: “Tôi buộc phải tự hỏi về ý nghĩa của việc tiếp tục một cuộc đàm phán mà ở đó chúng ta phải đưa ra các cam kết mà không có sự đảm bảo nào về phía đối tác, thậm chí không có cả định nghĩa rõ ràng… Mối đe dọa mà chúng ta đã cố gắng đặt ra đối với Trung Quốc và Việt Minh, ít nhất như một yếu tố trong đàm phán, giờ không còn giá trị nữa”. Ngày hôm sau, trong một bầu không khí căng thẳng, Bonnet thực hiện chỉ đạo này. Dulles trả lời rằng: “Chưa bao giờ một cường quốc lớn lại trao cho nước khác quyền lựa chọn việc họ có tham gia chiến tranh hay không”[36]. Chắc chắn rằng Bidault đã không hiểu được sự thật này – một sự thật mà Dulles thực ra đã dày công che giấu trong một khoảng thời gian dài.

Chuẩn bị cho việc thay thế ảnh hưởng của Pháp

Vào thời điểm Dulles và Bidault trao đổi những lời lẽ cay đắng, Hoa Kỳ đã âm thầm chấp nhận nguyên tắc các vùng chiếm đóng tập trung, và các phái đoàn Pháp cùng Việt Minh đang đàm phán về vĩ độ của đường phân chia. Có thể, dù khả năng rất nhỏ rằng đã có một cuộc can thiệp của Mỹ khiến Việt Minh phải nhượng bộ. Thật vậy, sau trận Điện Biên Phủ, lực lượng Việt Minh đã hao tổn không ít. Vào cuối tháng 5, tướng Navarre nhận định rằng một cuộc can thiệp của Mỹ trong thời gian ngắn có thể khiến Việt Minh trì hoãn cuộc tấn công vào vùng châu thổ trong vài tháng, để tranh thủ tái tổ chức lực lượng trong mùa mưa. Tương tự, Jean Chauvel – một trong những nhà đàm phán chính của Pháp tại Genève, ngày 12/6 cũng cho rằng việc phái đoàn Việt Minh vội vã muốn kết thúc đàm phán xuất phát từ một cuộc tấn công đã được lên kế hoạch vào thời điểm cố định, sẽ bị hủy bỏ nếu đàm phán thành công. Viễn cảnh Mỹ tiến hành cuộc can thiệp kéo dài khiến những lực lượng đã mệt mỏi phải tiếp tục gắng sức có thể đã làm cho Việt Minh kiềm chế hơn các yêu cầu của mình. Cũng có thể, Việt Minh đã nhận ra nguy cơ phụ thuộc vào Liên Xô và Trung Quốc nếu tình trạng quốc tế hóa diễn ra, vì vậy, họ muốn đạt được thỏa thuận để tránh tình huống đó[37].

Ông Jean Chauvel – Đại sứ Pháp tại Thụy Sĩ (ngoài cùng bên phải) cùng phái đoàn Thụy Sĩ và “Quốc gia Việt Nam” tại hội nghị Genève. Nguồn: Bettmann

Người ta có thể lập luận rằng Dulles cuối cùng đã góp phần củng cố vị thế của Pháp tại Genève. Lập luận này có thể chấp nhận được, nếu hiểu theo nghĩa rằng Ngoại trưởng Mỹ đã thúc đẩy phía Việt Minh đàm phán. Nhưng đây là một quan điểm khó bảo vệ nếu nhớ rằng Bidault đến hội nghị với mong muốn duy trì ảnh hưởng của Pháp tại Đông Dương.

Thật vậy, ngay cả khi đang đàm phán với Pháp về khả năng can thiệp, Dulles vẫn chuẩn bị cho việc thay thế ảnh hưởng của Pháp tại miền Nam Việt Nam bằng ảnh hưởng của Hoa Kỳ. Ngay từ đầu tháng 1/ 1954, chiến lược này bắt đầu bằng quyết định của Hội đồng An ninh Quốc gia khi cử một nhân viên CIA – Đại tá Lansdale – sang Việt Nam để tổ chức các lực lượng du kích bản xứ dưới sự kiểm soát hoàn toàn của Mỹ chứ không phải của Pháp. Bản báo cáo từ Bedell Smith đệ trình vào đầu tháng 3 cũng khuyến nghị những biện pháp tương tự như: trình bày mọi hành động can thiệp của phương Tây tại Đông Dương như điều kiện cần thiết để khu vực này giành được độc lập thực sự hoặc đào tạo các chính trị gia bản xứ có tinh thần dân tộc và đại diện cho quần chúng. Vào những ngày cuối tháng 5, ngay trước khi lên đường đi Sài Gòn, Lansdale đã trình bày với Dulles rằng chủ nghĩa chống thực dân là vũ khí hiệu quả nhất chống lại chủ nghĩa cộng sản. Ngoại trưởng Dulles không phản đối gì cả[38].

Chính trị gia chủ nghĩa dân tộc cực đoan mà Dulles hy vọng có thể xây dựng tại miền Nam Việt Nam không ai khác chính là Ngô Đình Diệm, người Công giáo gốc An Nam đang sống lưu vong tại Hoa Kỳ. Hồng y Spellman (Tổng Giám mục New York) bảo trợ cho ông này và vào năm 1953 đã được giới thiệu với một số nhân vật theo xu hướng trung dung như thẩm phán tòa án tối cao William Douglas hay Thượng nghị sĩ Mike Mansfield – một đảng viên Dân chủ và cũng là người Công giáo – những người có quan điểm giống Lansdale. Vào đầu tháng 4/1954, Douglas đã giới thiệu Diệm với CIA, và Allen Dulles (Giám đốc CIA) tỏ ra quan tâm đến nhân vật này[39].

Ngô Đình Diệm (trái) và Hồng Y Francis Spellman. Ảnh tư liệu

Không rõ CIA bắt đầu “chống lưng” cho Diệm từ thời điểm nào, nhưng đến giữa tháng 5/1954, Bảo Đại nhận được một thông điệp từ Diệm, trong đó ông ta bày tỏ sẵn sàng đứng ra thành lập một chính phủ dân tộc chủ nghĩa cứng rắn. Dù rất ghét Diệm, Bảo Đại vẫn chấp nhận: ông tìm thấy ở chính phủ này một cơ hội để tiếp tục chiến tranh với sự hậu thuẫn của Mỹ, thoát khỏi vòng kìm hãm của Pháp, từ đó ngăn việc tập trung các vùng chiếm đóng quân sự, và nhờ vậy ông hi vọng ngai vàng của mình có thể khôi phục sau đó. Tuy nhiên, đánh giá rằng Bảo Đại đã hoàn toàn mất uy tín, ngày 5/6, Dulles đã từ chối hỗ trợ kế hoạch tiếp tục chiến tranh của vị Hoàng đế này. Thay vào đó, để giữ thế chủ động tại miền Nam, ông ra lệnh phái đoàn Mỹ ở Genève phải khăng khăng rằng “Quốc gia Việt Nam” phải được trao nền độc lập hoàn toàn, không chịu bất cứ giới hạn nào về chủ quyền[40].

Kế hoạch của Bảo Đại càng chẳng có gì hấp dẫn với Dulles, vì đến đầu tháng 6, ông đã ngả về phương án chấp nhận việc tập trung các vùng quân sự. Nhưng vào giữa tháng 6, khi nhà đàm phán của Pháp Jean Chauvel đề nghị phía Mỹ thông báo cho chính quyền “Quốc gia Việt Nam” rằng hội nghị đang đi theo hướng chia cắt ở khoảng vĩ tuyến 18 thì Dulles từ chối. Ông trả lời rằng Hoa Kỳ không thể công khai ủng hộ và cũng không thể bí mật khuyên “Quốc gia Việt Nam” chấp nhận điều đó.

Bảo Đại duyệt một đơn vị quân đội sau khi nhận lời tuyên thệ từ quân đội “Quốc gia Việt Nam” tại Hà Nội ngày 17/4/1954. Nguồn: Bettmann

Dulles đã để cho nước Pháp, trước một Diệm vừa mới được bổ nhiệm, gánh lấy tai tiếng của việc chia cắt đất nước. Ngược lại, ông đảm bảo vị thế của Mỹ trong mắt nhà lãnh đạo mới này bằng cách gửi điện tín cho Diệm vào giữa tháng 7, khẳng định rằng Hoa Kỳ không coi việc chia đôi đất nước là vĩnh viễn, và ủng hộ các tuyên bố chủ quyền của “Quốc gia Việt Nam” đối với toàn bộ lãnh thổ. Cũng trong thời gian này, Lansdale trở thành cố vấn thân cận của Diệm[41].

Dulles đã có chủ đích theo đuổi một chính sách loại bỏ ảnh hưởng chính trị và kinh tế của Pháp tại Đông Dương. Theo ông, Pháp đã không ngừng cản trở các sáng kiến của Mỹ trong khu vực và ông sẵn sàng thành lập tổ chức SEATO mà không có Pháp tham gia. Về sâu xa, chính sách này cũng nằm trong khuôn khổ chiến lược “new look” – giống như chiến lược răn đe hạt nhân toàn diện, của chính quyền Eisenhower[42].

Ngay từ tháng 7/1954, Dulles đã quyết tâm phá hoại cuộc tổng tuyển cử năm 1956. Bởi miền Bắc có dân số đông hơn miền Nam, cuộc bầu cử đó nhiều khả năng sẽ dẫn tới việc toàn bộ Việt Nam chuyển sang XHCN. Trong khoảng thời gian giữa hòa bình và cuộc bầu cử đó, Dulles không kỳ vọng vào một cuộc xâm lược từ miền Bắc mà là sự gia tăng các hoạt động phá hoại của cộng sản tại miền Nam. Khối XHCN đã được cảnh báo rằng nếu có hành động tiến quân, họ sẽ phải đối mặt với trả đũa hạt nhân, trong khi Việt Minh rất được lòng dân ở cả miền Bắc và miền Nam. Trong bối cảnh đó, lợi ích của Việt Minh là nắm quyền toàn quốc bằng con đường hợp pháp thông qua bầu cử, trong khi tranh thủ vận động quần chúng miền Nam. Đối với Hoa Kỳ, việc miền Nam chuyển sang chế độ XHCN là điều không thể chấp nhận được. Nhưng làm sao có thể đáp trả bằng vũ khí hạt nhân trước một hành động phá hoại ngầm? Trong trường hợp không có một cuộc tiến công rõ ràng, dư luận trong và ngoài nước Mỹ sẽ cho rằng một cuộc tấn công như vậy là quá mức cần thiết. Hơn nữa, khi chưa có hành vi tấn công, việc xin Quốc hội Mỹ thông qua quyền tuyên chiến sẽ rất khó khăn. Sau nhiều năm đảng Cộng hòa phản đối “cuộc chiến của ông Truman” ở Triều Tiên, Eisenhower không thể mạo hiểm phát động một cuộc chiến tranh không tuân theo hiến pháp[43].

Theo Dulles, giải pháp là ngăn chặn hoạt động lật đổ bằng cách tăng cường chính quyền miền Nam, bố trí các chính trị gia vững vàng, được hậu thuẫn bởi nhiều chuyên gia Mỹ, xung quanh họ sẽ là làn sóng tuyên truyền để gợi lên tinh thần dân tộc. Trong một nhận định mang lại nhiều rắc rối về sau này, Dulles cho rằng chỉ có thể tuyển chọn những chính trị gia ấy từ giới Công giáo miền Bắc. Cuối cùng, từ góc nhìn của ông ta, chương trình này đòi hỏi người Pháp phải ra đi: một mặt để Hoa Kỳ có toàn quyền hành động, mặt khác vì Dulles – cũng như Eisenhower, các tham mưu trưởng, Lansdale và Mansfield – đều tin rằng có thể lôi kéo chủ nghĩa dân tộc trẻ tuổi về phía phương Tây bằng cách trình bày về chủ nghĩa cộng sản như một hình thức “thực dân đỏ”. Mà nếu đã chọn dùng luận điệu chống “thực dân đỏ”, thì không thể tiếp tục ủng hộ một thế lực thực dân khác (Pháp), nhất là khi thế lực ấy không còn sẵn sàng chiến đấu cho lợi ích của Mỹ[44].

Chính sách ở miền Nam Việt Nam của Dulles cũng phù hợp với chiến lược “new look”. Thật vậy, “new look” không chỉ dựa trên đe dọa trả đũa quy mô lớn mà còn giảm ngân sách quốc phòng (cắt giảm lục quân và hải quân) và áp dụng chiến lược bất đối xứng. Nói cách khác, sau sự sa lầy ở Triều Tiên, Mỹ không còn muốn đáp trả các hành động xâm lược bằng sức mạnh tương đương trên chính lãnh thổ bị tấn công nữa. Họ sẽ tấn công ngay vào lãnh thổ của phía khởi xướng với mức độ mạnh hơn vụ ban đầu (trả đũa quy mô lớn), đồng thời ngăn chặn lật đổ bằng cách tăng cường hoạt động của tình báo – tức chiến tranh âm thầm cường độ thấp[45].

Tại Đông Dương, việc Campuchia, Lào và Nam Việt Nam đặt dưới sự bảo vệ của khối SEATO, thành lập tháng 9/1954, đã hoàn thiện hệ thống này. Trong khối này, nếu có một cuộc tấn công xảy ra, Mỹ sẽ đáp trả bằng cách ném bom lãnh thổ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Nhiệm vụ của quân đội bé nhỏ Nam Việt Nam do Hoa Kỳ tài trợ là duy trì trật tự nội bộ và chịu cú sốc đầu tiên nếu bị xâm lược[46]. Nhưng kế hoạch này có một điểm yếu, sau khi giúp Diệm vô hiệu hóa các đối thủ chính trị, Mỹ sẽ không còn công cụ nào để gây áp lực với “sản phẩm của chính mình”, và về lâu dài, chính quyền độc đoán của Diệm sẽ khiến làn sóng lật đổ ngày càng mạnh hơn.

Vai trò của Mỹ tại Đông Dương

Mặc dù Pháp còn do dự, nhưng việc Mỹ từ chối can thiệp quân sự lại khó hòa hợp với những tuyên bố chính thức liên tục nhấn mạnh tầm quan trọng của miền Bắc Việt Nam – vốn được coi là chìa khóa chiến lược cho kế hoạch ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản, và của toàn Đông Dương, đối với an ninh Hoa Kỳ. Người ta cũng có thể tự hỏi, nếu mục tiêu là ngăn chặn khối XHCN mở rộng tới tận Nhật Bản chẳng hạn, mà không phải chỉ dừng ở miền Bắc Việt Nam thì liệu Eisenhower có đồng tình với Quốc hội đến mức khăng khăng rằng việc can thiệp chỉ có thể diễn ra trong khuôn khổ một liên minh?

Vậy Hoa Kỳ do dự có phải vì họ không muốn đơn phương gây chiến mà không có đồng minh ủng hộ? Đúng là Anh phản đối can thiệp, Úc từ chối tham gia, khiến Washington không còn đòn bẩy nào để gây áp lực với Anh. Và việc Mỹ rút lại đề nghị can thiệp trùng với thời điểm Úc từ chối có vẻ có liên hệ. Tuy nhiên, lời từ chối của Úc đến ngay sau khi em trai của Ngoại trưởng Dulles – một người thân cận với chính quyền – đưa ra một đánh giá cực kỳ bi quan về tình hình quân sự tại miền Bắc Việt Nam, điều này hẳn đã khiến Dulles phải cân nhắc lại. Việc Mỹ đột ngột rút lại lời đề nghị cũng làm quan hệ giữa Paris và Washington căng thẳng nghiêm trọng.

Liệu người ta có thể viện dẫn lý do chống thực dân hay mong muốn không can thiệp sâu vào chuyện thiên hạ? Cũng có thể, nhưng một số điều kiện mà Mỹ đưa ra khi đề xuất can thiệp thực ra đã loại bỏ yếu tố thực dân của Pháp trong cuộc chiến, và dù có thể nghi ngờ Pháp có toan tính phía sau thì Paris và Washington vẫn tìm được tiếng nói chung về điểm này. Ngoài ra, những gì chính quyền Eisenhower thực hiện ở Nam Việt Nam từ tháng 6/1954 đã làm rõ hơn khái niệm “độc lập” theo kiểu của Mỹ, vốn không đồng nghĩa với tự chủ hoàn toàn.

Về phía Quốc hội Mỹ, đúng là họ không muốn một cuộc can thiệp mới khi bầu cử đang đến gần. Tuy nhiên, Eisenhower và Dulles đã loại trừ khả năng dùng quân dịch và cũng không định đưa lính thủy đánh bộ vào chiến đấu. Hơn nữa, Dulles đã trình bày đề nghị can thiệp với đại sứ Bonnet dưới sự chấp thuận của Eisenhower, và Tổng thống biết rõ rằng nếu quyết định can thiệp, ông cần thuyết phục được Quốc hội.

Bên cạnh việc cân nhắc các yếu tố chính trị, ta cũng cần đánh giá vị trí của Đông Dương – đặc biệt là vùng Bắc Việt Nam – trong chiến lược ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản mà Hoa Kỳ đã chính thức theo đuổi kể từ sau chiến thắng của Mao Trạch Đông ở Trung Quốc. Thoạt nhìn, vị trí đó có vẻ rất quan trọng. Thật vậy, nhiều tài liệu cho thấy trong con mắt của các nhà ngoại giao và quân sự Hoa Kỳ, việc để mất vùng châu thổ phía Bắc Việt Nam sẽ dẫn đến sự lan rộng của khối XHCN tới tận Indonesia và kênh đào Suez. Nhật Bản – khi giao thương với một châu Á mà CNXH lan rộng – sẽ rời xa khối phương Tây. Tương tự, giới quân sự Mỹ vẫn nhớ rằng trong Thế chiến II, căn cứ không quân hải quân tại Cam Ranh từng là bàn đạp lý tưởng cho không lực Nhật Bản tiến xuống Đông Nam Á. Nhưng, nếu thực sự tin vào học thuyết Domino, thì rất khó hiểu tại sao Dulles lại chỉ đưa ra cho Pháp một “đề nghị kiểu Gascon”, mạnh miệng nhưng thiếu thực tế[47].

Lời giải nằm ở ba sự phân biệt rõ ràng giữa phòng thủ và răn đe, Đông Nam Á với Đông Dương và giữa miền Nam với miền Bắc Việt Nam. Từ sau Thế chiến II, trong các kế hoạch “phòng thủ chiều sâu”, Hoa Kỳ quyết tâm biến Thái Bình Dương thành “hồ nước của Mỹ” và kiên quyết bảo vệ chuỗi đảo từ quần đảo Aleutian đến Philippines. Nhưng sau chiến thắng của Mao Trạch Đông, những cuộc đàm phán căng thẳng giữa Bộ Ngoại giao và Bộ Quốc phòng Mỹ đã dẫn tới bản chỉ thị NSC 48/2 ngày 30/12/1949, trong đó xác định rằng Mỹ phải bảo vệ cả lục địa Đông Nam Á giống như đã cam kết với chuỗi đảo[48]. Tuy vậy, sự phân biệt giữa đảo và lục địa vẫn còn tồn tại. Từ năm 1945, Bộ Tổng tham mưu Mỹ luôn chuẩn bị sẵn kế hoạch bảo vệ chuỗi đảo. Ngược lại, vào tháng 11/1950, họ tuyên bố rằng không hề có kế hoạch nào để bảo vệ Đông Dương nếu xảy ra chiến tranh quy mô lớn, nhưng trong bối cảnh chiến tranh lạnh, cần phải ngăn chặn chiến thắng của Việt Minh. Bởi vì, một chiến thắng như thế sẽ tạo điều kiện cho sự lan rộng hơn nữa của CNXH, và làm tăng uy tín của khối này trên toàn thế giới[49].

Tương tự, trong nửa đầu năm 1950 (tức là trước khi xảy ra chiến tranh Triều Tiên), Bộ Ngoại giao và Bộ Quốc phòng Mỹ đều đồng thuận rằng: Đông Nam Á là khu vực có tầm quan trọng sống còn, Đông Dương là chìa khóa chiến lược trong kế hoạch ngăn chặn việc lan rộng của CNXH, và Pháp sẽ chịu trách nhiệm chính trong việc phòng thủ, với sự hỗ trợ vật chất ở mức độ khiêm tốn từ phía Hoa Kỳ. Trong hoàn cảnh đó, các tham mưu trưởng quân đội Mỹ nhấn mạnh hai điều:

1. Cần phải củng cố Đông Nam Á trước khi khối XHCN chiếm được các khu vực được xem là “sống còn”

2. Vì vẫn còn tiếc nuối về chiến thắng của Mao Trạch Đông ở Trung Quốc, họ cho rằng nếu củng cố được Đông Nam Á, phương Tây có thể giành lại thế chủ động ở Viễn Đông – tức là có thể gây sức ép trở lại với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa[50].

Lính trinh sát Pháp tuần tra con đường nối Hà Nội và Hòa Bình tháng 1/1952. Ảnh chụp bởi Keystone France

Những đánh giá như vậy được đưa ra trước cuộc chiến ở Cao Bằng (tháng 10/1950), nghĩa là vào thời điểm mà vị thế của quân viễn chinh Pháp còn tương đối vững chắc, các sĩ quan quân đội Mỹ vẫn còn tin tưởng rằng lực lượng này sẽ đảm đương nhiệm vụ ngăn chặn CNXH tại Đông Dương. Tuy nhiên, sau khi quân Pháp rút khỏi Hòa Bình (tháng 2/1952), những nghi ngờ bắt đầu xuất hiện. Tháng 3/1952, các Tham mưu trưởng quân đội Mỹ đã đặt câu hỏi với Bộ Ngoại giao rằng: Liệu Đông Nam Á có phải là khu vực thiết yếu đối với an ninh của Hoa Kỳ hay không? Một câu trả lời khẳng định hoặc phủ định sẽ dẫn đến việc xây dựng các kế hoạch quân sự hoàn toàn khác nhau. Paul Nitze, giám đốc Ban hoạch định chính sách, với sự ủng hộ của Ngoại trưởng Dean Acheson, đã trả lời họ rằng: nếu chi phí bảo vệ khu vực vượt quá một mức độ nhất định (không được xác định rõ) thì Hoa Kỳ cho rằng việc tiếp tục bảo vệ nơi này là vô ích[51].

Sự phân biệt do R.Blum và R.Dingman đưa ra là hợp lý và đáng lưu ý. Theo hai tác giả này, lục địa châu Á không nằm trong phạm vi phòng thủ sống còn của Hoa Kỳ mà là một phần trong chiến lược “răn đe” nhằm vào khối XHCN. Khu vực này không phải vùng thiết yếu cho an ninh nước Mỹ – không nhất thiết phải giữ bằng mọi giá. Nhưng đồng thời, nơi đây được xem như một “vành đai biên giới” của đế quốc Mỹ, và Mỹ mong muốn giữ khu vực này trong tầm ảnh hưởng của mình ở giới hạn chi phí chấp nhận được[52].

Hơn nữa, ngay trong nội bộ Đông Nam Á, các chiến lược gia Mỹ cũng phân biệt rõ các khu vực có tầm quan trọng khác nhau. Xét về tổng thể, toàn bộ tiểu lục địa này có chức năng tạo thành một khu vực kinh tế tích hợp và bổ trợ với Nhật Bản. Và theo chỉ thị NSC 124/2 thông qua vào tháng 6/1953, trong khu vực Đông Nam Á, hai nước có vai trò quan trọng đối với kinh tế Nhật Bản và việc gắn kết Nhật trong khối phương Tây chính là Malaysia và Indonesia. Quan điểm này được nhắc lại nguyên văn trong văn kiện NSC 5405, vẫn còn hiệu lực trong thời gian diễn ra Hội nghị Genève. Cuối cùng, theo một nghiên cứu do Hội đồng An ninh Quốc gia (NSC) tiến hành vào tháng 2 năm 1952, thì miền Bắc Việt Nam được coi là tuyến đầu của chiến lược ngăn chặn, trong khi eo đất Kra (biên giới phía Bắc của Malaysia do người Anh kiểm soát) là tuyến phòng thủ thứ hai vững chắc. Ở phía Nam eo đất này, không chỉ có Malaysia và Indonesia, mà còn có những căn cứ hải quân và không quân quan trọng, cùng với các tuyến liên lạc có giá trị chiến lược cao[53].

Tuy nhiên, vào mùa xuân năm 1954, người Anh vẫn kiểm soát vững chắc eo đất Kra, và tại Malaysia, họ đang giành ưu thế trước cuộc nổi dậy độc lập mang màu sắc XHCN địa phương. Về phía Thái Lan, Tổng thống Eisenhower đã cử tướng Donovan – cựu lãnh đạo cơ quan tình báo Mỹ trong Thế chiến thứ hai – làm đại sứ từ năm 1953. Kết quả là hoạt động tình báo Mỹ ở phía Tây Đông Dương được tăng cường đáng kể, quân đội Thái Lan cũng được gia tăng năng lực quân sự. Vì vậy, ngay cả khi toàn bộ Đông Dương trở thành một phần của khối XHCN, các “quân cờ domino” ở phía tây và phía nam Đông Dương chưa chắc đã sụp đổ.

Chân dung William. J. Donovan chụp tại New York những năm 1940. Ảnh: PhotoQuest

Trong bối cảnh đó, cũng dễ hiểu khi chỉ có một người trong nhóm bốn nhân vật chủ chốt của chính quyền Eisenhower tham gia quyết định can thiệp quân sự tin rằng việc mất Bắc Kỳ sẽ kéo theo sự sụp đổ của toàn bộ Đông Nam Á – đó là tướng Radford. Cũng chính Radford, vẫn là người đơn độc trong quan điểm của mình, đề xuất tiến hành một cuộc chiến tranh hạt nhân phòng ngừa chống lại Trung Quốc – một hình thức ngăn chặn liều lĩnh và mạo hiểm nhất. Trong khi đó, như đã thấy, ngay từ tháng 2/1954, Bedell Smith đã đề xuất các biện pháp hướng đến việc chia cắt Đông Dương. Ngày 12 tháng 5, Dulles thừa nhận trước Thượng viện rằng việc bảo vệ Đông Nam Á mà không còn “Đông Dương” là điều hoàn toàn có thể thực hiện. Về phần Eisenhower, ông đã chấp nhận điều chỉnh chính sách của mình theo hướng này từ ngày 6/4[54].

Cuối cùng, ngay trong nội bộ Việt Nam – trung tâm quan tâm chính của người Mỹ tại Đông Dương – cũng cần phân biệt rõ giữa miền Nam và miền Bắc. Miền Bắc, với dân số quá đông, chỉ có giá trị chiến lược nhờ vị trí sát cạnh Trung Quốc. Trong khi đó, miền Nam xuất khẩu gạo và sở hữu căn cứ quân sự Cam Ranh. Vì vậy, một tháng trước Hội nghị Genève, Dulles đã có thể tuyên bố với các nghị sĩ Mỹ rằng: “Việc mất đồng bằng miền Bắc Việt Nam không khiến Hoa Kỳ mất đi các nguồn lực quan trọng, vì gạo mà Nhật tiêu thụ đến từ phía Nam của Đông Dương”. Và đó cũng chính là lập luận của Paul Reynaud[55].

Việc chấp nhận các vùng quân sự tập trung về một nơi ở Việt Nam cho phép Hoa Kỳ thực hiện chương trình ngăn chặn toàn cầu của mình với chi phí thấp nhất và rủi ro tối thiểu. Họ càng dễ dàng chọn giải pháp tiết kiệm này vì lúc đó, như L.Belb nhận xét, uy tín của Mỹ đang ở đỉnh cao: Hoa Kỳ vừa lật đổ Mossadegh ở Iran và Arbenz ở Guatemala, trong khi hiệp định đình chiến Triều Tiên mới được ký kết. Do đó, việc rút khỏi miền Bắc Việt Nam,vốn được biện minh bởi tình hình quân sự, sẽ không khiến khối XHCN nghĩ rằng phương Tây đang suy yếu hay có ý định hòa hoãn[56].

Mối quan tâm thể hiện cho khối XHCN thấy rằng Hoa Kỳ vẫn trung thành với chương trình ngăn chặn toàn cầu của mình cũng giải thích cho việc thay thế ảnh hưởng chính trị của Pháp tại Đông Dương (cụ thể là việc thực hiện chương trình độc lập hoàn toàn cho quốc gia này, cùng với việc loại bỏ những đặc quyền kinh tế của Pháp tại miền Nam Việt Nam) mà người Mỹ tiến hành sau Hội nghị Genève. Thật vậy, bản chỉ thị NSC 5429, đưa ra chính sách của Mỹ ở Viễn Đông sau hiệp định Genève, không nói gì về các hệ quả cụ thể của thỏa thuận này, mà chỉ nhấn mạnh đến việc mất uy tín của Hoa Kỳ do khối XHCN giành được lãnh thổ, vẻ ngoài ôn hòa của khối này giúp họ có thể thu hút nhiều quốc gia châu Á và việc Mỹ ủng hộ những kẻ thua cuộc. Dulles đồng tình với những phân tích này và thừa nhận rằng việc thành lập khối SEATO sẽ gắn uy tín của Hoa Kỳ với một khu vực khó kiểm soát, nơi tình hình đang không mấy sáng sủa. Tuy nhiên, Dulles kết luận rằng không làm gì cả sẽ đồng nghĩa với việc để mất lãnh thổ mà không chiến đấu, điều này không thể chấp nhận được[57].

Chính mong muốn khẳng định cam kết của Hoa Kỳ với chiến lược ngăn chặn toàn cầu cũng giải thích các biện pháp mà Kennedy đưa ra năm 1961, vốn là bước đầu của việc leo thang tại Việt Nam. Trước sự suy yếu của chế độ Diệm, việc phương Tây chấp nhận một Việt Nam trung lập có thể đã giúp ngăn chặn miền Nam – bao gồm Cam Ranh và vùng sản xuất lúa gạo – rơi vào tay khối XHCN. Tuy nhiên, bất kể khả năng thành công ra sao, đề xuất này do Thứ trưởng Ngoại giao Chester Bowles nêu ra đã không được Kennedy chấp thuận, và bối cảnh quốc tế khi đó giải thích cho quyết định của ông. Những quyết định này được đưa ra sau thất bại ở Vịnh Con Heo (Cuba); trong lúc việc trung lập hóa Lào chỉ được xem là thành công một nửa từ góc nhìn phương Tây; và trong bối cảnh căng thẳng gia tăng xung quanh vấn đề Berlin làm dấy lên nguy cơ xung đột hạt nhân. Kennedy cũng chú ý đến một bài phát biểu vào tháng 1/1961, trong đó Khrushchev đã hứa sẽ ủng hộ các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc. Trong hoàn cảnh đó, Tổng thống quyết định tạo ra một ví dụ điển hình tại miền Nam Việt Nam – nơi mà vị thế của Mỹ vẫn còn tương đối vững chắc. Thái độ khinh thường của Khrushchev đối với Kennedy tại hội nghị thượng đỉnh Vienna vào tháng 6/1961 cũng góp phần khiến Tổng thống thêm quyết tâm cứng rắn. Cũng cần lưu ý rằng vào năm 1961, người Mỹ đến để cứu chính người đại diện do họ dựng lên. Lúc này, họ không còn sợ rằng mình đang hành động vì lợi ích của Pháp nữa[58].

Nhân dân biểu tình phản đối Chính phủ Ngô Đình Diệm tại Củ Chi những năm 1960. Ảnh: Pictures from History

Bằng cách tài trợ cho Kế hoạch Navarre, chính quyền Eisenhower đã trao cho chiến lược ngăn chặn – tại nơi xảy ra xâm lược hay lật đổ, do Pháp thực hiện ở Đông Dương – một cơ hội cuối cùng. Tuy nhiên, sau thất bại tại Điện Biên Phủ, sự sụp đổ về mặt quân sự và mong muốn hòa bình khiến người Mỹ quyết định đặt Đông Dương, cũng như phần còn lại của châu Á, vào một chính sách “new look”, ít tương thích với lợi ích của Pháp tại bán đảo này.■ (Hết)


[1] Césari Laurent (1957) là nhà sử học người Pháp chuyên nghiên cứu về chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ từ năm 1945 – 1961. (ND)

[2] Chiêu trò nghe hoành tráng nhưng thực chất là thiếu tính thực tế. (ND)

[3] NSC 5405 (16/1/1954), United States, Department of State, Foreign Relations of the United States (trích dẫn về sau: FRUS), XII, 1, 1952-1954, tr. 366-381

[4] United States, Senate, Executive Sessions of the Senate Foreign Relations Committee (trích dẫn về sau: SFRC), VI, tr. 113-114.

[5] President’s Special Committee Report on Southeast Asia, phần hai, United States, Congress, House of Representatives, Committee on Armed Services, United States- Vietnam relations, 1945- 1970 (trích dẫn về sau: PP, DOD), IX, tr. 346-358.

[6] Phỏng vấn Dulles-Radford-các nghị sĩ, 5/4/1954, FRUS, XIII, 1, 1952-1954, tr. 1224-1225 ; Army position on NSC action number 1074-a, không ghi ngày (khoảng 5/4/1954), PP, DOD, IX, p. 332; phỏng vấn Eisenhower-Dulles, 11/5 và 19/5/1954, FRUS, XIII, 2, 1952-1954, tr. 1532-1534 và 1583-1585; Valluy (DFGP Washington) tại Defnat Paris, số 399 DFGP/TS, 10/6/1954, Vincennes, Service historique de l’Armée de terre (trích dẫn về sau: SHAT), 1K233(42), hồ sơ 301-12-C-4 (Chuỗi 1K233 tương ứng với hồ sơ của tướng Paul Ely)

[7] Phỏng vấn Eisenhower-Dulles-Cutler, 5/5/1954 (FRUS, XII, 1, 1952-1954, tr. 446-450), và ngày 7/5/1954 (FRUS, XIII, 2, 1952-1954, tr. 1495-1498); Dulles trước Ủy ban đối ngoại Thượng viện, 12/5/1954, SFRC, VI, tr. 268-275.

[8] . Reynaud gửi J. Laniel, 18/3/1954, và G.Bidault, kế hoạch trả lời J. Laniel, Paris, Archives nationales (trích dẫn về sau: AN), 457AP52, hồ sơ 2 (chuỗi 457AP tương ứng với hồ sơ của G. Bidault); cuộc Họp Hội đồng An ninh quốc gia (sau viết tắt là: NSC), 6/4/1954, FRUS, XIII, 1, 1952-1954, tr. 1250-1265; An ninh quốc gia, ghi chú “trước hội nghị Genève”, 23/4/1954, AN, 457AP52, hồ sơ 3; J. Chauvel (Genève), số 185-186 và 187-189, 6/5/1954, như trên.

[9] G. Bidault (Genève), số 266-275, tài liệu 1954, AN, 457AP54, hồ sơ 2 ; G. Bidault (Genève), số 290, 11/5/1954, AN, số 457AP55, hồ sơ 5; Comigal Saigon à Etassociés Paris, 31228-31237, 14/5/1954, AN, 74AP35. (Chuỗi 74AP tương ứng với hồ sơ của Paul Reynaud)

[10] Báo cáo Lennuyeux, SHAT, 1K233(39), hồ sơ 300-01; M. Schumann, ghi chú không có ngày (30/4/1954), AN, 457AP53, hồ sơ 1; M. Schumann gửi Bidault, 1/5/ 1954, như trên; Tổng cục châu Á, lưu ý cho Chủ tịch, 4/5/1954, như trên; P. Reynaud, ghi chú viết tay, “20/5, Hội đồng Bộ trưởng, cuộc chạy đua Hoa Kỳ”, AN, 74AP40.

[11] Hoppenot (New York), số 1174-1178, 28/4/1954, AN, 74AP38; J. Laloy (Genève), ghi chú “Tình hình thực tiễn về vấn đề ở Đông Dương tại Hội nghị Genève”, 30/4/1954, Paris, Bộ Ngoại giao (trích dẫn về sau: MAE), Viễn Đông, số 1944-1955, Các hồ sơ chung, 262; R. Massigli (London), 2016-2021, 4/5/1954, AN, 457AP54, hồ sơ 2; “Hội nghị châu Á tại Genève. Quan hệ Bắc Kinh – Moskva tại Genève”, 6/5/1954, AN, 457AP55, hồ sơ 4; ghi chú SDECE, 7/5/1954, AN, 457AP53; “Việt Minh và việc giải quyết vấn  đề ở Đông Dương”, 9/5/1954, AN, 457AP55, hồ sơ 4

[12] Dulles gửi Bidault và Bidault gửi Dulles, Genève, 3/5/1954, số AN, 457AP54, dossier 2 ; H. Bonnet (Washington), 3067-3070, 13/5/1954, như trên; phỏng vấn Dulles-Bonnet, 8/5/1954, FRUS, XIII, 2, 1952-1954, tr. 1516

[13] Phiên họp của NSC, 6 mai 1954, FRUS, XIII, 2, 1952-1954, p. 1481-1493; phỏng vấn Eisenhower-Dulles-Cutler, 7/5/1954, như trên, p. 1495-1498; biên bản ghi nhớ từ Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân gửi Bộ trưởng Quốc phòng, được Eisenhower chấp thuận, 7/5/1954, PP, DOD, IX, p. 430-434.

[14] Bidault gửi Dulles, Genève, 3/5/1954, AN, 457AP54, hồ sơ 2; phỏng vấn Dulles-Bonnet, Washington, 8/5/1954, FRUS, XIII, 2, 1952-1954, tr. 1516 ; Dillon (Paris), điện báo ngày 10/5/1954, như trên, tr. 1522-1525; G. Bidault (Genève), số 240-241, 10/5/1954, AN, 457AP54, hồ sơ 2; Phái đoàn Pháp (Genève), Ghi chú cho Chủ tịch, 1/6/1954, như trên.

[15] Dulles gửi Dillon, tài liệu 1954, FRUS, XIII, 2, 1952-1954, p. 1534-1536; cuộc họp Eisenhower-Dulles-các tham mưu trưởng, 28/5/1954, FRUS, XII, 1, 1952-1954, tr. 521-526.

[16] Phỏng vấn Smith-Robertson- Hoàng tử Wan-Pote-Sarasin, Genève, 15/5/1954, FRUS, XVI, 1952-1954, tr. 800-801

[17] Biên bản ghi nhớ các Tham mưu trưởng gửi Bộ Quốc phòng, 20/5/1954, FRUS, XIII, 2, 1952-1954, tr. 1590-1592

[18] Samuel F. Wells, “The origins of massive retaliation“, Political Science Quarterly, 96(1), xuân 1981, tr. 31-52; NSC 162/2, trong Mike Gravel ed., The Pentagon papers (trích dẫn về sau: PP, Gravel), I, p. 412-429; biên bản ghi nhớ của Robert Bowie, phụ lục một phỏng vấn Eisenhower-Dulles, 11/5/1954, FRUS, XIII, 2, 1952-1954, tr. 1532-1534

[19] Cuộc họp giữa Eisenhower-Dulles-các Tham mưu trưởng, 28/5/1954, FRUS, XII, 1, 1952-1954, tr. 521-526

[20] Phỏng vấn Dulles-Radford và cộng sự., 9/5/1954, FRUS, XII, 1, 1952-1954, tr. 463-465; Anderson gửi Dulles, 25/5/1954, như trên, tr. 513-516.

[21] Cuộc họp giữa Eisenhower-Dulles-các Tham mưu trưởng, đã dẫn.

[22] Dillon (Paris), điện tín ngày 14/5/1954, FRUS, XIII, 2, 1952 – 1954, tr.1566 – 1568; ghi chú của Reynaud: ghi chép viết tay “Indochine”, không đề ngày tháng, AN, 74AP39; ghi chú của Bidault trong nhật ký của P.Ely, 6/4/1954, SHAT, 1K233 (19)

[23] J. Laloy, ghi chú về đề xuất của phía Mỹ, 24/5/1954, AN, 457AP54, hồ sơ số 2; Dulles gửi Dillon, 26/5/1954. FRUS, XIII, 2, 1952-1954, tr 1618 – 1620

[24] G.Bidault (Genève), số 574 – 579, 31/5/1954, 45AP54, hồ sơ số 2.

[25] G.Bidault (Genève), số 536 – 538, 27/5/1954, AN, 457AP54, hồ sơ số 2; Dillon (Paris), điện tín ngày 31/5/1954, FRUS, XIII, 2, 1952-1954, tr.1642 – 1643.

[26] J. Laloy, ghi chú về đề xuất của phía Mỹ, 24/5/1954; tương tự, ghi chú cho Bộ trưởng, “Conversations franco – americaines”, 31/5/1954; Phái đoàn Pháp, Genève, ghi chú cho Tổng thống, 1/6/1954 (tất cả các tài liệu trên: AN, 457AP54, hồ sơ số 2)

[27] Dulles gửi Dillon, 15/5/1954. FRUS, XIII, 2, 1952 – 1954, tr. 1569 – 1571; Dulles gửi Dillon, 21/5/1954, cùng nguồn, tr. 1594 – 1595.

[28] J. Laloy, ghi chú về đề xuất của phía Mỹ, 24/5/1954; M. Schumann (Paris) gửi Bidault, số 762 – 765, 28/5/1954; Phái đoàn Pháp, Genève, ghi chú cho Tổng thống, 1/6/1954; G.Bidault (Genève), số 643-650, 5/6/1954 (tất cả các tài liệu trên: AN, 457AP54, hồ sơ số 2). Cuộc thảo luận của Smith – Bidault, Genève, 5/6/1954, FRUS, XVI, 1952 – 1954, tr. 1039-1040.

[29] Dillon (Paris), điện tín ngày 30/5/1954, FRUS, XIII, 2, 1952-1954, tr. 1639 – 1641.

[30] Ý kiến của các Tham mưu trưởng, chuyển tới Pleven ngày 5/5/1954, SHAT, 1K233 (39), hồ sơ số 300 – 01; Ủy ban Quốc phòng, 14 – 15 và 26/5/1954, AN, 74AP40; R.Offoy, ghi chú lưu ý cho Bidault, vấn đề về đường hướng của Việt Minh tại Hội nghị Genève, 5/6/1954, AN, 457AP53, hồ sơ số 4.

[31] G.Bidault (Genève), số 536-538, 27/5/1954, MAE, Đông Nam Á, 1944-1955, hồ sơ chung, 226; Dillon (Paris), điện tín ngày 28/5/1954, FRUS, XIII, 2, 1952 – 1954, tr. 1628 – 1630; R.Offoy, ghi chú cho J.Chauvel,  “Tin tức về cuộc tấn công của Việt Minh vào vùng đồng bằng”, 31/5/1954, MAE, Đông Nam Á, 1944 – 1955, hồ sơ chung, 262.

[32] Ghi chú gửi Dillon (Paris), điện tín ngày 30/5/1954, FRUS, XIII, 2, 1952 – 1954, tr. 1639 – 1641; cuộc họp giữa Eisenhower – Dulles – Anderson – MacArthur – Cutler, 2/6/1954, FRUS, XII, 1, 1952 – 1954, tr. 529 – 531; cuộc thảo luận giữa Dulles – Spender – Munro, 4/6/1954, ibid., tr. 546 – 547.

[33] J. Laloy, ghi chú cho Bộ trưởng, “Conversations franco – americaines”, 31/5/1954, AN, 457AP54, hồ sơ số 2; Ước lượng Tình báo Quốc gia 10-3-54, 1/6/1954, FRUS, XIII, 2, 1952 – 1954, tr. 1652 – 1657; phiên họp Hội đồng An ninh Quốc gia Hoa Kỳ, 3/6/1954, FRUS, XII, 1, 1952 – 1954, tr. 532 – 537.

[34] Thảo luận giữa Dulles – Spender, 4/6/1954, FRUS, XII, 1, 1952 – 1954, tr. 537 – 539; Dulles gửi Dillon, 4/6/1954, PP, DOD, IX, tr. 530.

[35] Dillon (Paris), điện tín ngày 9/6/1954, FRUS, XIII, 2, 1952 – 1954, tr. 1670 – 1672; Dillons (Paris), điện tín ngày 11/6/1954, ibid, tr. 1682 – 1684; ghi chú cho Tổng thống về các cuộc thảo luận Pháp – Hoa Kỳ, 11/6/1954, AN, 457AP54, hồ sơ số 2; M. Schumann (Paris) gửi Đại sứ quán Pháp ở Washington, số 7970 – 7979, 11/6/1954, ibid.

[36] G. Bidault (Genève) gửi Đại sứ quán Pháp ở Washington, số 8163 – 8170, 18/6/1954, AN, 457AP54, hồ sơ số 1; thảo luận giữa Dulles – Bonnet, 16/6/1954,  FRUS, XIII, 2, 1952 – 1954, tr. 1710 – 1713.

[37] Francois Joyaux, “Về những mối quan hệ Trung Quốc – Việt Minh trong năm 1950 – 1954”, trong Enjeu et puissances. Hommages a Jean Baptiste Duroselle, Paris, Nhà xuất bản Sorbonne, 1986, tr. 331 – 346; R. Offoy, ghi chú cho J. Chauvel, “Tin tức về cuộc tấn công của Việt Minh vào vùng đồng bằng”, 31/5/1954, MAE, Đông Nam Á, 1944 – 1955, hồ sơ chung, 262; R.Offoy, ghi chú lưu ý cho Bidault về đường hướng của Việt Minh tại hội nghị Genève, 5/6/1954, AN, 457AP55, hồ sơ số 4; J.Chauvel gửi G.Bidault, 12/6/1954, AN, 457AP54, hồ sơ số 1.

[38] Phiên họp của Hội đồng An ninh Quốc gia Hoa Kỳ, 14/1/1954, FRUS, XII, 1, 1952 – 1954, tr. 361 – 365, và FRUS, XIII, 1, 1952 – 1954, tr. 961 – 964; họp Ủy ban Bedell Smith bàn về Đông Dương, 29/1/1954, PP, Gravel, 1, tr. 443 – 447; Báo cáo của Lansdale, ibid, tr.573 – 583; Bedell Smith gửi Eisenhower, 11/3/1954, FRUS, XIII, 2, 1952 – 1954, tr. 1108 – 1116; Michael Charlton, Anthony Mocrieff, Many reasons why. The American involvement in Vietnam, Londres, Scolar Press, 1978, tr. 42.

[39] Townsend Hoopes, The devil and John Foster Dulles, Boston, Little, Brown, 1973, tr.251; Joseph B. Smith, Portrait of a cold warrrior, New York, Putman, 1976, tr.179.

[40] Bedell Smith (Genève), điện tín ngày 17/5/1954, FRUS, XVI, 1952 – 1954, tr. 828 – 829; thảo luận giữa Ngo Dinh Luyen – Bonsal, Genève, 19/5/1954, ibid, tr 859 – 862; Dulles gửi Phái đoàn Hoa Kỳ (Genève), 22/5/1954, ibid, tr. 892 – 894; Dulles gửi Bedell Smith, 5/6/1954, ibid, tr. 1044 – 1045.

[41] Thảo luận giữa Bedell Smith – Chauvel, Genève, 16/6/1954, FRUS, XVI, 1952 – 1954, tr. 1154 – 1155; Dulles gửi Phái đoàn Hoa Kỳ (Genève), 17/7/1954, ibid, tr. 1397 – 1398; rapport Lansdale, PP, Gravel, 1, tr. 1176 – 1178; Thảo luận giữa Chauvel – Johnson, Genève, 18/6/1954, ibid, tr.1176 – 1178; Dulles gửi Phái đoàn Hoa Kỳ (Genève), 16/7/1954, ibid, tr, 1397 – 1398; báo cáo của Lansdale, PP, Gravel, 1, tr. 573 – 583.

[42] Thảo luận giữa Dulles – Eden, Washington, 26/7/1954, FRUS, VI, 1, 1952 – 1954, tr, 1086 – 1094; thảo luận giữa Dulles và các cố vấn, 10/7/1954, FRUS, XII, 1, 1952 – 1954, tr. 614 – 615.

[43] Thảo luận giữa Dulles – Casey, 29/6/1954, FRUS, XII, 1, 1952 – 1954, tr. 583 – 588; thảo luận giữa Dulles, Casey, Munro, 30/6/1954, ibid, tr, 588 – 589, cuộc họp về Đông Nam Á, 24/7/1954, ibid, tr. 665 – 671, cuộc họp Hội đồng An ninh Quốc gia Hoa Kỳ, 12/8/1954 tr. 724 – 733.

[44] Thảo luận giữa Dulles – Casey, 29/6/1954, FRUS, XII, 1, 1952 – 1954, tr. 583 – 588; thảo luận giữa Dulles, Casey, Munro, 30/6/1954, ibid, tr, 588 – 589, cuộc họp Hội đồng An Ninh Quốc gia Hoa Kỳ, 24/11/1954, FRUS, II, 1952 – 1954, tr. 787 – 802.

[45] John Lewis Gaddis, Strategies of containment, New York, Nhà xuất bản Đại học Oxford, 1982, chương 5

[46] NSC 5429, 4/8/1954, FRUS, XII, 1, 1952 – 1954, tr. 693 – 703; cuộc họp của NSC, 12/8/1954, ibid, tr. 724 – 733; Dự thảo bức điện chung của Bộ Ngoại giao và Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ gửi Heath và O’Daniel (tại Sài Gòn), ngày 21/10/154, PP, DOD, X, tr.783 – 788

[47] Richard H. Immerman, “Les intérêts américains en Indochine  (1941 – 1954)”, Denise Artaud, Laurence Kaplan, Dien Bien Phu. L’Alliance alantique et la défense du Sud-Est asiatique, Lyon, La Manufacture, 1989, tr. 23 – 60

[48] Robert M. Blum, Drawing the line. The origin of American containment policy in East Asia, New York, Norton, 1982; Melvyn P. Leffler, “The American conception of national security and the beginnings of the cold war, 1945 – 1948”, American Historical Review, 89 (2), 4/1984, tr. 346 – 400

[49] Roger Dingman “Strategic planning and the policy process. American plans for war in East Asia, 1945-1950”, Naval War College Review, 32 (6), 11-12/1979, tr. 4-21: Ủy ban khảo sát chiến lược chung của Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân, 17/11/1950, FRUS, VI, 1950, tr. 949-953

[50] Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân, 10/4/1950, PP, DOD, VIII, tr. 308 – 310; lập trường chung của Bộ Ngoại giao và Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân, 28/4/1950, FRUS, III, 1950, tr.1001 – 1006; Đông Nam Á, Tham mưu trưởng liên quân gửi Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, 2/5/1950, PP, DOD, VIII, tr.318 – 320; thảo luận giữa Acheson – Schumann, Paris, 8/5/1950, FRUS, III, 1950, tr. 1007 – 1013; Biên bản nhất trí ba bên về Đông Nam Á, London, 22/5/1950, ibid, tr. 1082 – 1085

[51] Cuộc họp Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ – Hội đồng Tham mưu trưởng, 5/3/1952, FRUS, XII, 1, 1952 – 1954, tr. 55 – 68; Cuộc họp của NSC, 5/3/1952, ibid, tr. 69 – 75

[52] Robert Blum và Roger Dingman, từ trang 127 và 128 của: Waldo Heinrichs, “Summary of discussion”, trong Dorothy Borg, Waldo Heinrichs, Uncertain years. Chinese – American relations, 1947 – 1950, New York, nhà xuất bản Đại học Columbia, 1980, tr. 119 – 128

[53] William S. Borden, The Pacific alliance. United States foreign economic policy and Japanese trade recovery, 1947-1956, Madison, Nhà xuất bản Đại học Wisconsin, 1984; Michael Schaller, The American occupation of Japan. The origins of the cold war in Asia, New York, nhà xuất bản Đại học Oxford, 1985; phụ lục của NSC 124, 13/2/1952, PP, Gravel, I, tr. 375-381; NSC 124/2, 25/6/1952, FRUS, XII, 1, 1952-1954, tr. 125-134; NSC 5405, 16/1/1954, ibid, tr. 366-381

[54] Ủy ban Bedell Smith về Đông Dương, 29/1/1954, FRUS, XIII, 1, 1952 – 1954, tr. 1002 – 1006 (Radford); cuộc họp của NSC, 6/4/1954, ibid, tr. 1250 – 1265 (Eisenhower); cuộc họp của Ủy ban Đối ngoại Thượng viện, 12/5/1954, SFRC, VI, tr.274 – 275 (Dulles)

[55] “Tóm tắt bài phát biểu của Smith gửi Tổng thống và nhóm Quốc hội lưỡng đảng, 8:30 sáng, 23/6/1954”, FRUS, XIII, 2, 1952 – 1954, tr. 1730 – 1733 (trích tr. 1733); P.Reynaud gửi J. Laniel, 8/6/1954, AN, 74AP38

[56] Leslie H.Gelb, Richard K. Betts, The irony of Vietnam. The system worked, Washington, The Brookings Institution, 1979, tr.70 – 71

[57] Thảo luận giữa Dulles – Eden, Washington, 26/6/2954, FRUS, VI, 1, 1952 – 1954, tr. 1086 – 1094; NSC 5429, 4/8/1954, FRUS, XII, 1, 1952 – 1954, tr. 696 – 703; thảo luận giữa Eisenhower – Dulles, 17/8/1954, ibid, tr.735, cuộc họp của NSC, 21/12/1954, FRUS, II, 1952 – 1954, tr. 832 – 844

[58] I. H. Gelb, R. K. Betts, op, cit, tr. 70 – 71 và 74; PP, Gravel, II, chương 1.

Blog tư liệu Tags:Chiến tranh Việt Nam, Đông Dương, Pháp, thuộc địa, Vietnam War

Post navigation

Previous Post: Nhà báo Nhật trở về sau 53 ngày bị giam trong căn cứ cách mạng miền Nam
Next Post: Nhìn lại không khí sục sôi những ngày Cách mạng tháng Tám năm 1945 qua báo chí xưa

More Related Articles

Joan Baez ở Hà Nội: Lễ Giáng sinh dưới mưa bom Blog tư liệu
Với những kẻ đầu cơ, cuộc chiến thật tuyệt vời Blog tư liệu
Ngựa và voi trong tín ngưỡng của người An Nam Blog tư liệu
Canh bạc ở Đông Dương Blog tư liệu
Bài trí đầy tinh thần mến khách cho đàm phán hòa bình Việt Nam Blog tư liệu
Sự sụp đổ của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu qua hồi ký Trần Văn Đôn Blog tư liệu

Leave a Reply Cancel reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

  • Tạp chí Phương Đông Official Channel
  • Thư viện Nguyễn Văn Hưởng Fanpage
Tạp chí Phương Đông số tháng 10-2024

Chuyên đề

  • Việt Nam trên báo Mỹ
  • Tạp chí Phương Đông

Kết nối với chúng tôi

Nguồn tài liệu

  • The Vietnam Center and Sam Johnson Vietnam Archive
  • MSU Vietnam Group Archive
  • The Wilson Center Digital Archive
  • The National Security Archive
  • CIA Historical Collections
  • Office of the Historian – U.S. Department of State
  • National Archives
  • Internet Archive
  • United Nations Archives
  • Journal of Vietnamese Studies
  • Harvard-Yenching Library
  • Yale University Digital Collections: Maurice Durand Han Nom
  • Digital Libraries – Gallica – BnF
  • Les Archives nationales d’outre-mer
  • Bulletin de l’École française d’Extrême-Orient
  • Sách Đông Dương – Thư viện QGVN
  • Thư tịch Hán Nôm – Thư viện QGVN
  • Báo chí số hóa – Thư viện QGVN

Bài mới

  • Đông Dương quanh co (Kỳ 2: Từ Sài Gòn tới Đà Lạt)
  • Giáo dục dưới thời Toàn quyền Albert Sarraut và Martial Merlin
  • Mặt trận phản chiến bên trong nước Mỹ
  • Cuộc chiến “châu chấu đá voi” ở Việt Nam
  • Hoạt động tình báo ở các đô thị Việt Nam bị địch tạm chiếm giai đoạn 1945 – 1954

Lưu trữ

TRƯNG BÀY KỶ VẬT CHIẾN SĨ

Tags

1945 1954 1975 Bảo Đại Báo chí Campuchia Chiến tranh Việt Nam Chiến tranh Đông Dương chế độ thực dân chủ nghĩa thực dân Chủ tịch Hồ Chí Minh CIA Cách mạng Tháng Tám giới thiệu sách Hoa Kỳ Huế Hồ Chí Minh Hà Nội Mỹ nghệ thuật ngoại giao Ngô Đình Diệm Ngô Đình Nhu phong trào phản chiến phong tục phản chiến Pháp POW/MIA Quan hệ Việt - Mỹ Sài Gòn thuộc địa Thập niên 1960 Thực dân Pháp triều Nguyễn Tết tình báo Vietnam War Việt Minh Việt Nam Cộng hòa Việt Nam thời hậu chiến Việt Nam trên báo Mỹ văn hóa Đảo chính Đông Dương Đông Nam Á

Đăng ký

  • ĐĂNG KÝ LÀM THẺ
  • ĐĂNG KÝ TẢI TÀI LIỆU SỐ
  • Biển Đông – Nhìn từ góc độ lịch sử và pháp lý Xuất bản
  • Miền đất vàng Đông Dương Xuất bản
  • Đối thoại với các phái đoàn Hoa Kỳ Xuất bản
  • Thắng địa Thăng Long – Địa linh đất Việt Xuất bản
  • Những biên bản cuối cùng tại Nhà Trắng: Phút sụp đổ của Việt Nam Cộng Hòa Xuất bản
  • Thế giới đang thay đổi – Trật tự đa cực xuất hiện Xuất bản
  • Nước Nga trong thế giới đa cực Xuất bản
  • Chuyến thăm Hà Nội Xuất bản
  • Cuộc chiến của tôi với CIA: Hồi ký của Hoàng thân Norodom Sihanouk Xuất bản
  • Con đường thiên lý: Hành trình kỳ lạ của các sứ bộ Anh Quốc tới Việt Nam thế kỷ 17 – 19 Xuất bản
  • Giải phóng Xuất bản
  • Pol Pot: Mổ xẻ một cơn ác mộng Xuất bản
  • Nước mắt mùa thu Xuất bản
  • Tầm nhìn từ Lịch sử Xuất bản
  • Một góc nhìn thời cuộc Xuất bản

Copyright © 2025 Thư viện Nguyễn Văn Hưởng.