Con trâu đứng thứ hai trong thập nhị chi và là một trong những con giáp gắn bó mật thiết với đời sống nông nghiệp và nông thôn, trở thành “đầu cơ nghiệp” của người nông dân xưa và có thể cả hôm nay. Nó là một tư liệu sản xuất vô cùng quan trọng trong đời sống nông nghiệp nên việc cấm giết mổ trâu bò đã từng bị cấm và phạt tội nặng từ thời Lý (1009-1225) như nguồn sử liệu vào năm 1123 đã ghi rõ. Không khó để nhận ra, con trâu đã bước vào lịch sử và văn hoá Việt Nam từ thủa rất sớm với hình ảnh Đinh Bộ Lĩnh cưỡi trâu cầm cờ lau tập trận hay trong thơ ca, nhạc và nghệ thuật tạo hình. Tuy nhiên, ngày nay hình ảnh con trâu gắn với đời sống nông thôn và nông dân dường như đang dần vắng bóng trong văn hoá nghệ thuật. Trong một cảm luận nghệ thuật mới đầu năm Tân Sửu, chúng tôi muốn nói tới hình ảnh con trâu trong tranh với một khoảng lịch sử hơn trăm năm đầy biến động, một cái nhìn từ tranh dân gian tới hiện đại và đương thời. Cảm thức về con trâu đã biến đổi một cách sống động và giàu thẩm mỹ hay đó còn là sự chuyển đổi ý thức về nông nghiệp, nông thôn và nông dân.
Trước năm 1945 hình ảnh con trâu trong văn hoá nghệ thuật Việt Nam thật chân thực thân quen như thể một người bạn hay người thân của các gia đình nông dân và nông thôn Việt. Nếu vẻ đẹp của làng quê miền Bắc với mái đình giếng nước gốc đa thì con trâu đầm giữa trưa hè oi ả, cảnh chăn trâu và đàn trâu lững thững trở về trong những dáng chiều,… là những hình ảnh nên thơ và yên bình. Người nông dân xưa coi trâu như một người bạn nên mới có những giọng tâm tình thủ thỉ “trâu ơi ta bảo trâu này, trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta” hay những ví von trong thơ ca cũng gắn với trâu như một thành viên của gia đình hạnh phúc “trên đồng cạn xuống ruộng sâu, trồng cầy vợ cấy con trâu đi bừa”. Bởi thế mỗi người khi đi xa quê hương, chúng ta không khỏi những bồi hồi khi nhớ “cùng một bến sông con trâu đằm sóng vỗ”. Con trâu đã bước ra từ trong những huyền tích với Cao Biền về chùa Kim Ngưu (Tiên Du, Bắc Ninh) hay núi Long Đọi (Duy Tiên, Hà Nam) cùng sông Kim Ngưu và Hồ Tây ngày nay. Không những thế, con trâu còn gắn với nhiều lễ hội trên mọi miền tổ quốc như lễ hội chọi trâu Đồ Sơn hay lễ Tịch điền đầu năm của các vương triều phong kiến… Ngoài ra phải kể tới hình tượng con trâu trong điêu khắc cổ Việt Nam như một cặp tượng trâu lớn gần bằng thực nằm trên toà sen ở cấp nền ba chùa Phật Tích (Bắc Ninh), tượng trâu nằm trên bệ liền khối ở lăng vua Lê Hiến Tông (Quảng Ninh) và chạm khắc cảnh trâu chọi nhau ở đình Liên Hiệp (Hà Nội)… Thêm vào đó có thể nói tới bộ tranh Phật giáo Thập mục ngưu đồ có nguồn gốc bắt đầu từ thời Nam Tống (1127-1279) lấy hình ảnh ẩn dụ cảnh chăn trâu cũng giống như việc chăn tâm / thân. Ở nước ta bộ tranh 10 cảnh chăn trâu hiện còn được biết là vào năm 1721 do thiền sư Thích Quảng Trí luận giải. Năm 1972 bộ tranh Thập mục ngưu đồ này được Nhà xuất bản An Tiêm ấn hành bởi Trúc Thiên sưu tầm. Bộ tranh Thiền này lấy trâu tượng trưng cho năm giác quan (ngũ trần / căn): mắt, mũi, miệng, tai và da thịt; mục đồng là thân và hành động chăn là ý thức / tỉnh thức (chánh niệm). Hình ảnh mục đồng và trâu không thể tách rời khỏi nhau nương tựa để cuối cùng là trâu thuần còn người thì an nhiên “thõng tay vào chợ”. Hơn hết phải nói tới nghệ thuật tạo hình tranh dân gian Việt Nam như tranh Đông Hồ và Hàng Trống, có thể thấy ở đây hình ảnh trâu và người nông dân trong rất nhiều hoạt cảnh, lúc bận bịu cày bừa khi an nhiên nghỉ ngơi bên nhau. Đời sống tự tại của người nông dân mang tới cảm giác bình thản dường như phảng phất mùi vị của chất thiền trong những bức tranh này.
Nhiều bức tranh vẽ cảnh mục tử chăn trâu thổi sáo, đọc sách hay thả diều gợi nhắc vẻ thanh thản ung dung như cuộc sống bình yên của nông thôn Việt Nam
Hình ảnh con trâu trong một tâm thức ban đầu còn được diễn tả trong nhiều tác phẩm của hội hoạ hiện đại, qua các tác phẩm sơn mài của Phạm Hậu như Mục đồng Bắc kỳ (1931) hay Giáng sinh của Nguyễn Gia Trí (1941), Hoàng Tích Chù và Nguyễn Tiến Chung (1942-1943)…
Vẻ bình yên của một nông thôn Việt Nam với nhà tranh gốc mít, cây đa bến nước mái đình,… đã dần thay đổi qua 9 năm trường kháng chiến chống Pháp và 20 năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Con trâu từ một người bạn người thân là tư liệu sản xuất quan trọng nay thành phương tiện sản xuất cần thiết cho một thời kỳ mới. Dấu ấn chuyển đổi này đã được các hoạ sĩ thời kỳ hiện đại khắc hoạ một cách rõ nét với một cách nhìn hiện thực sinh động. Vào năm 1953 hoạ sĩ Tô Ngọc Vân đã vẽ bức Con trâu quả thực thể hiện một người nông dân vui sướng nhận được phần chia của mình, con trâu được vẽ trong một dáng vẻ nhìn chéo lại phía sau như đang chần chờ và mong ngóng điều gì.
Riêng hoạ sĩ Nguyên Tư Nghiêm biểu hiện một cách đầy ý vị nhân văn trong bức tranh sơn mài Con nghé quả thực (1957). Bố cục tranh vẽ về một gia đình nông dân đang vui vẻ nhận được phần “quả thực” của mình là một con nghé.
Sau công cuộc cải cách ruộng đất ở miền Bắc, người nông dân hồ hởi trong đời sống mới với phong trào hợp tác xã và từ đây con trâu cũng được vẽ trong những bối cảnh sống động mới của đời sống kinh tế tập thể như bức tranh sơn dầu Một buổi cày (1960) của hoạ sĩ Lưu Công Nhân. Trên cánh đồng loang loáng nước trước vụ cấy là những con trâu béo tốt đang kéo cày, phía sau là những người nông dân hợp tác xã. Với một bút pháp ấn tượng, những con trâu trong tranh được vẽ một cách chân thực và sinh động.
Vẻ đẹp của nông thôn bình yên có những đống rơm khô vàng ươm trong góc sân vườn không thể thiếu đi hình ảnh con trâu bởi nó như một phần quan trọng cho phong cảnh nông thôn được khắc hoạ rõ nét như trong tác phẩm Phong cảnh nông thôn (1982) của hoạ sĩ Trần Lưu Hậu.
Bước vào những năm đầu thập kỷ 80 của thế kỷ trước và đặc biệt là sau thời kỳ Đổi Mới (1986) nền kinh tế Việt Nam đã có những chuyển biến về cơ cấu quản lý, đặc biệt là sự chuyển đổi của mô hình hợp tác xã đã khiến đời sống nông nghiệp, nông thôn và nông dân một lần nữa thay đổi sâu sắc. Đi liền với những biến đổi này là sự chuyển mình của văn hoá nghệ thuật Việt Nam khi được cởi trói khỏi những hạn chế trong sáng tác từ phong cách, bút pháp tới đề tài. Hình tượng con trâu trong tranh cũng vì thế mà thêm nhiều diện mạo khác mới lạ, con trâu từ một hình ảnh hiện thực nay phai dấu và trở nên nhạt nhoà trong một xã hội hiện đại hoá, trở thành như một ý niệm hay mô típ cho hồi ức và những hoài niệm về một thuả bình yên nay đang thay đổi trong đời sống nông nghiệp và phong cảnh nông thôn. Hình tượng trâu trong tranh như một dạng “cổ mẫu” của một tiềm thức hay những giấc mơ rất gần mà đang xa xôi khó nắm bắt. Có thể nói tác phẩm vẽ trâu như một con giáp đầu năm mới là của hoạ sĩ Bùi Xuân Phái vào năm Ất Sửu (1985), chú bé mục đồng xưa đi đâu để thay vào đó là một người đàn ông mặc comlê thắt cà vạt đội mũ ngồi tươi cười hớn hở.
Nhiều hoạ sĩ thế hệ đổi mới và hậu đổi mới đã chọn hình ảnh con trâu với cặp sừng cong vênh váo vào trong tác phẩm của mình như Phạm Quang Vinh, Quách Đông Phương, Hà Trí Hiếu,… đặc biệt hai hoạ sĩ Nguyễn Thành Chương và Nguyễn Văn Cường là những người vẽ về trâu tiêu biểu cho hai thế hệ hoạ sĩ đương thời. Nếu như hình ảnh trâu trong tranh Thành Chương là một cấu trúc trong tác phẩm như một dạng mô típ có tính gợi nhắc mã nghệ thuật xưa và giúp tổ hợp bố cục cho tác phẩm giàu tính thị giác thì hình tượng trâu trong tranh của Cường hiện thực và giàu tính biểu hiện hơn.
Có thể thấy trong hội hoạ đương đại Việt Nam, hình tượng con trâu là một cấu trúc và mô típ phổ quát của một dạng “vô thức tập thể” của những người nghệ sĩ xuất thân và gần gũi gắn bó với nông thôn và nông dân. Một mong ước bình an nay chỉ còn trong những hoài niệm xa xưa đang khó nắm giữ trong hiện tại.
Hơn một thế kỷ với đầy những biến động lịch sử của dân tộc, hình tượng con trâu dường như cũng theo một cảm thức tương đồng. Con trâu từ một người bạn kẻ tâm tình như một mã văn hoá và đặc tính bất biến của người Việt thành một phương tiện và tư liệu sản xuất, để cuối cùng chỉ còn là một hoài niệm hay mô típ cho những cảm thức đương thời về quá khứ bình yên dung dị, một kiểu “vô thức tập thể” theo cách mà Carl Jung (1875-1961) gọi là “cổ mẫu” đã biến mất. Năm mới Tân Sửu đang tới cũng là thời điểm chúng ta suy tư về con trâu cùng hơn 60% dân số Việt Nam đang là nông dân sống dựa vào nông nghiệp và nông thôn trong một bối cảnh toàn cầu hoá và chuyển đổi số mạnh mẽ như hiện nay.
Nguyễn Anh Tuấn (Thư viện NVH)