Nguồn: Hahn, Hazel. “Dystopia in Utopia: Exoticism and Degeneration in Indochina, 1890–1940.” Embodied Utopias. Routledge, 2003. 97-110.
Người dịch: Khánh Linh
Từ những năm 1890 đến thập niên 1920, quan niệm phổ biến của người Pháp về Đông Dương chứa đựng nhiều hệ tư tưởng đối lập nhau: chủ nghĩa thực dân bóc lột được tăng cường nhờ cuộc cạnh tranh với Đế quốc Anh, chủ nghĩa tự do thể hiện qua tư tưởng truyền bá các giá trị cộng hòa ra nước ngoài để hoàn thành sứ mệnh khai hóa văn minh, và những chỉ trích xoay quanh chủ nghĩa thực dân mà thường được thúc đẩy bởi các yếu tố kinh tế hơn là đạo đức. Những hình ảnh lý tưởng hóa về ảnh hưởng tích cực của chủ nghĩa thực dân (như tiến bộ về mặt vật chất và đạo đức) xuất hiện trong những câu chuyện kể của cả chính quyền lẫn khách du lịch. Những miêu tả này thường tập trung vào thành tựu rõ rệt nhất của chủ nghĩa thực dân là quy hoạch đô thị và kiến trúc của những thành phố thuộc địa hiện đại như Sài Gòn và Hà Nội. Tuy nhiên, trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học xã hội, các quan điểm vô cùng ảm đạm về ảnh hưởng của chủ nghĩa thực dân cũng rất phổ biến. Sự bi quan này một phần đến từ nỗi thất vọng về nhiệm vụ khai hóa văn minh, nhưng một phần khác bắt nguồn từ nỗi sợ hãi lan rộng về sự thoái trào của nền văn hóa “cao” Châu Âu. Trong văn học, nỗi ám ảnh với sự suy đồi lên đến đỉnh điểm vào giai đoạn chuyển giao thế kỷ, sau thành công vang dội của tác phẩm “Suy đồi” của Max Nordeau (1892) mà sau đó đã được dịch sang tiếng Pháp vào năm 1893 (Greenslade 1994: 120). Tuy nhiên, ý tưởng về sự suy thoái của các nền văn minh vẫn tiếp tục tồn tại trong nhiều diễn ngôn và lại được đưa ra một lần nữa vào thập niên 1930 bởi những người ủng hộ nền chính trị theo thuyết ưu sinh[1]. Như Ann Laura Stoler đã chỉ ra, sự thoái trào này dường như đe dọa thuộc địa nhiều hơn cả mẫu quốc, và nguồn gốc của nó thậm chí còn lan rộng và nguy hiểm hơn (Stoler 1995: 102 – 9). Vì sự suy thoái được xem là một phần không thể thiếu trong quá trình tiến hóa của các nền văn minh, nên không chỉ người dân vùng thuộc địa mà cả thực dân cũng bị cho là dễ trụy lạc theo những cách khác nhau. Các nhà lý luận cho rằng sự tiếp xúc của hai nền văn hóa khác nhau có thể gây ra ảnh hưởng hủy diệt lẫn nhau. Nền văn minh Châu Âu thường được xem là đã gây ra sự sụp đổ của nền văn hóa bản địa thay vì tạo ra được một nền văn hóa hội nhập. Người ta cũng cho rằng một số chất du nhập từ phương Tây như rượu và morphin đã khiến người dân thuộc địa suy đồi về mặt đạo đức. Ngay cả những người cho rằng một số khía cạnh nhất định của nền văn minh An Nam vượt trội so với văn minh Pháp cũng có xu hướng đồng ý với nhận định này.
Nhà viết kịch Eugène Brieux lập luận rằng trước khi người Pháp xuất hiện, “sự đồi trụy, nghiện rượu và khốn khổ không tồn tại ở Đông Dương” (Brieux 1910: 132). Mặc khác, ngoài cái nóng gay gắt vùng nhiệt đới, thì nguồn gốc đáng sợ nhất gây ra sự suy đồi ở thực dân dường như lại chính là nền văn hóa thuộc địa. Thông qua khảo cứu các du ký, quảng cáo du lịch, văn học, lý thuyết dân tộc học tội phạm và thuyết ưu sinh, bài tiểu luận này sẽ xem xét lại chủ nghĩa khoái lạ[2] xoay quanh Đông Dương, đặt trong bối cảnh quy hoạch đô thị thuộc địa, các lý thuyết về sự suy đồi và những quan niệm về “con lai”.
Khung cảnh như tranh vẽ – một yếu tố xây dựng vẻ đẹp lạ
Gần đây nổi lên một làn sóng văn học và điện ảnh Pháp lấy đề tài về Đông Dương mà trong đó, Đông Dương đầu thế kỷ XX được tái hiện như một khoảng không-thời gian phản chiếu qua một tấm gương hoài niệm. Cuốn “L’Indochine en cartes postales avant l’ouragan: 1900 – 1920” (Đông Dương qua bưu thiếp trước cơn bão) của Jean Noury với tấm bìa màu pastel đã tái tạo lại một Đông Dương nhìn qua lăng kính màu hồng. Vừa hoài cổ, lại vừa nghi hoặc chính nỗi niềm hoài niệm đó, quyển sách này gợi cảm giác cố gắng níu giữ một thời kỳ đã qua như một giấc mơ đầy màu sắc, một cuộc thử nghiệm của những lý tưởng. “L’Indochine en cartes postales avant l’ouragan” cho thấy rõ ràng rằng bưu thiếp là một phương tiện phù hợp để khắc họa khung cảnh đẹp như tranh. Hàng chục ngàn tấm bưu thiếp như vậy đã được chính quyền thuộc địa cùng ngành công nghiệp tư nhân sản xuất và lưu hành, một phần nhằm thu hút khách du lịch đến Đông Dương. Thông qua bưu thiếp, các nhà quảng bá du lịch cố gắng xây dựng hình ảnh về một vùng đất xa xôi với sự pha trộn đầy mời gọi giữa cảm giác thân quen và lạ lẫm, một nơi vừa đem lại những chuyến phiêu lưu, vừa cung cấp đẩy đủ tiện nghi phương Tây. Bưu thiếp khắc họa không chỉ các nhóm dân tộc thiểu số, những tòa nhà, ngành công nghiệp, thương mại, vùng nông thôn, các khía cạnh đa dạng trong cuộc sống thường nhật, mà còn cả những mặt tối, bất hợp pháp của xã hội như gái mại dâm, xác chết, trộm cướp với cùng một con mắt đầy tò mò, mời gọi người xem bằng cách gây sốc. Hình ảnh Đông Dương đối lập với những tấm bưu thiếp về nước Pháp cùng thời mà trong đó, các khía cạnh tăm tối của xã hội đều bị xóa bỏ.
Trong khi những bức ảnh đẹp như tranh vẽ này nhắm vào cả hai đối tượng phụ nữ và nam giới, thì phong cảnh trong văn học thường là phương tiện thể hiện duy nhất dành cho nữ thực dân, mà ẩn giấu trong đó đôi khi là một trạng thái tâm lý căng thẳng và lo lắng luôn chực trào – như Sara Suleri từng thể hiện về Ấn Độ thuộc Anh (Suleri 1992: 75 – 109). Nhà văn người Pháp Myriam Harry đã chấp bút “Petites Épouses” (Những người vợ bé nhỏ) (1913) dành cho Đông Dương – một tác phẩm giả tưởng lạ kỳ và tuyệt đẹp. Ở Pháp, “văn học phong cảnh” là một thể loại đã tồn tại từ lâu. Ban đầu, vào thế kỷ XVIII, sự hùng vĩ và “đẹp như tranh vẽ” là thẩm mỹ dành cho cảnh quan và thiên nhiên, nhưng sang đến thế kỷ XIX thì nó ngày càng được áp dụng cho thẩm mỹ đô thị của Pháp và xuất hiện trong vô số mô tả về các loại đô thị và con người. Từ giữa thế kỷ XIX, cảnh quan gần như luôn được miêu tả là “pittoresque et curieux” (đẹp như tranh vẽ và gây tò mò), trở thành một thể loại văn học phổ biến ở Pháp và được duy trì bởi nhiều nhà văn, hầu hết là nam giới. Bước sang thế kỷ XX, du ký về những vùng đất xa xôi cũng bắt đầu có những đoạn miêu tả cảnh quan, đặc biệt là các tác phẩm được viết bởi phụ nữ và dành cho nữ độc giả. Myriam Harry là một trong những nhà văn sáng tác thể loại văn học này, kết hợp với yếu tố “đẹp lạ” kiểu Pierre Loti và nhấn mạnh đến việc tìm kiếm các yếu tố gây ấn tượng. Tác phẩm của bà được nhiều phụ nữ Pháp đón đọc.
Khung cảnh đẹp như tranh cũng được sử dụng như một chiến lược nhằm “đúc” những thành phố thuộc địa Châu Á vào khuôn mẫu của Pháp. Các hình ảnh tập trung vào những yếu tố bên ngoài như ngoại hình và trang phục. Một chủ đề phổ biến là bầu không khí náo nhiệt, đem lại cảm giác cuốn hút và hội nhập quốc tế. Các tác giả tôn vinh sự pha trộn hài hòa giữa nhiều chủng tộc và kiểu người khác nhau trên những con phố lớn. Tất cả những gì có khả năng làm phức tạp hóa hình dung này về Đông Dương đều bị gạt sang một bên, chẳng hạn như sự thật về chủ nghĩa thực dân và tình trạng phân biệt đối xử. Myriam Harry tuyên bố trong “L’Indo-Chine” rằng không một thủ đô xứ thuộc địa nào có thể “duyên dáng hơn, dịu dàng chào đón hơn Sài Gòn”, với những đại lộ rộng lớn và những vườn hoa ngát hương – một “bức tranh nhiệt đới thầm mang trong mình một sợi dây liên kết đặc biệt với sự thanh lịch kiểu Pháp” (Harry 1912: 74). Một phần quan trọng làm nên sự quyến rũ của Đông Dương là sự phong phú của các tộc người. Khách du lịch khi đi dạo phố có thể quan sát được nhiều kiểu người khác nhau giữa sự pha trộn đẹp như tranh vẽ của một đám đông “đa dạng và lang thang”:
“Các viên chức, cán bộ,… thông dịch viên đội khăn xếp xanh,… quan lại người Lào,… những người đàn bà lai xinh đẹp,… người Campuchia, các phu ngực trần,… những người phụ nữ Bắc Kì tuyệt đẹp,… những phụ nữ An Nam bán-nguyên-thủy ngắm nhìn con búp bê kỳ diệu qua lớp kính cửa hàng…” (Harry 1912: 75)
Hình ảnh trên gợi nhớ đến vô số những mô tả về đám đông đa dạng tầng lớp và quốc tịch trên các Đại lộ Paris vào thế kỷ XIX. Nhờ sự không đồng nhất và tính quốc tế này mà những đại lộ đó được xem là trung tâm của thế giới, một quang cảnh vĩnh cửu, và một thiên đường dành cho những kẻ lang thang. Số lượng người nước ngoài ngày càng tăng lên trên các đại lộ vào thời điểm chuyển giao giữa hai thế kỷ. Từ phương thức quan sát này, các nữ du khách Pháp thường nhìn ngắm đường phố Đông Dương như một khung cảnh xa lạ, nghệ thuật và đầy màu sắc của nhiều chủng tộc khác nhau, một tấm kính vạn hoa không ngừng thay đổi. Một số người khác lại nhìn khung cảnh ấy như một sự tương phản giữa phương Đông và phương Tây. Tác giả người Mỹ Helen Churchill Candee miêu tả Hải Phòng là “một thành phố Pháp với những biệt thự, nhà thờ, công trình công cộng tràn ngập cư dân sống xa đất Pháp. Người Bắc Kỳ cũng có khu phố của họ, nhưng vì quá đông đúc mà khu phố này ngày càng một phình to ra. Và từ đó, khung cảnh đẹp như tranh vẽ bắt đầu xuất hiện trên những đường phố mang hơi thở Châu Âu của Hải Phòng” (Candee 1927: 8). Một đoạn miêu tả đề cập đến việc phân biệt chủng tộc một cách rất bình thường như thế này đã mỹ hóa cảnh đường phố và tổ chức lại hệ thống phân cấp danh tính. Mặc dù cư dân nơi đây không phải là người Pháp nhưng Hải Phòng vẫn được coi là một thành phố Pháp vì cơ sở hạ tầng của nó.
Bầu không khí thanh bình mà náo nhiệt là một yếu tố chính trong ảo mộng của thực dân Pháp về một “địa đàng trần gian” mang tên Sài Gòn. Biệt danh “Hòn ngọc Viễn Đông” của thành phố này ngụ ý về một vẻ đẹp nữ tính, nguyên sơ và xa lạ, quyến rũ và cởi mở. Chiều kích không tưởng này về Sài Gòn chủ yếu bắt nguồn từ sự mới mẻ của thành phố, cùng vẻ đẹp hiện đại trong bố cục và kiến trúc của nó. Bắt đầu được người Pháp phát triển vào năm 1867, Sài Gòn nhiều lần được miêu tả là một thành phố hiện đại của Pháp nằm lọt thỏm giữa khung cảnh phương Đông, một thành phố với “diện mạo hoàn toàn Châu Âu”, với “đường bờ sông dài, các đại lộ lớn cùng những con phố rộng rãi và thẳng tắp được thắp sáng bằng đèn điện” (Petit 1902: 508, 510). Khách du lịch nhận thấy phong cách Pháp của Sài Gòn ngay từ cái nhìn đầu tiên khi họ cập cảng vào thành phố. Đối với Brieux, cảnh tượng đập vào mắt khi ông đặt chân đến Sài Gòn đã củng cố những dòng mô tả nổi tiếng mà ông từng được nghe “hàng nghìn lần” về thành phố này, bao gồm “lối vào một dòng sông lớn, quanh co và sâu thẳm đổ ra sông Mê Kông, và khi lại gần thì những tháp chuông nhà thờ xuất hiện trong tầm mắt, khi thì ở bên phải, khi lại ở bên trái” (Brieux 1910: 88). Không phải du khách Pháp nào cũng nhiệt tình đón nhận kiến trúc kiểu Pháp ở Đông Dương. Vào những năm 1900, những công trình kiến trúc như vậy thường bị chỉ trích là quá xa hoa, phung phí (Wright 1911: 162).
Tương tự như hình ảnh Paris thường được các sách hướng dẫn du lịch khắc họa là một thành phố tráng lệ mà trong đó mọi yếu tố không phù hợp – đặc biệt là hình ảnh tầng lớp nhân dân lao động – đều bị xóa bỏ, thì sách hướng dẫn du lịch Sài Gòn và Hà Nội cũng chỉ tập trung vào những khía cạnh tráng lệ, mang phong cách Pháp mà thôi. Những khía cạnh mang tính bản địa của thành phố phải chịu thiệt trong các mô tả như vậy. Trên thực tế, mặc dù chưa bao giờ được thi hành một cách xuyên suốt, tuyệt đối như ở Ấn Độ thuộc Anh, nhưng chính sách phân biệt đối xử vẫn được thực hiện một cách trắng trợn tại các khu dân cư của Đông Dương, và ít chính thức hơn trong những khu vực thương mại. Đến cuối những năm 1920, sự huyên náo cuồng nhiệt đã thay thế bầu không khí thanh bình để trở thành đặc trưng của đường phố Sài Gòn. Người An Nam, người Hoa và người Malabar tràn ngập trên đường phố giữa những người Châu Âu ngồi trên xe hơi, xe kéo hoặc trong các quán cafe trên sân thượng (Billotey 1929: 11). Buổi tối, người Châu Âu lái xe quanh thành phố. Khi Sài Gòn mở rộng vào thập niên 1920 – 1930, khu dân cư và thương mại của người bản địa đã bị đẩy ra xa trung tâm. Với chính quyền thì hoạt động giải trí và kinh doanh, “những tòa nhà hiện đại đầy quyền lực và có sơ đồ thiết kế” trở thành đặc điểm đánh dấu khu vực trung tâm, còn “những ngôi nhà thuộc địa rộng rãi với mái hiên” thì được xây dựng ở ngoại ô thành phố (Durtain 1930: 102). Sự hợp nhất giữa phương Đông và phương Tây thường trở nên giới hạn về phong cách. Ví dụ, Đại lộ Norodom ở Sài Gòn gợi nhắc đến “các motif Châu Á được đơn giản hóa bởi dòng phong cách hiện đại”, mặc dù nhà quy hoạch đô thị Ernest Hebrard đã đặt ra nguyên tắc phải tích hợp hai yếu tố Đông và Tây nhiều hơn (Durtain 1930: 103). Tuy nhiên, đôi khi, các tòa nhà được mô tả là hoàn toàn theo phong cách Pháp lại có nội thất đáng ngạc nhiên. Chẳng hạn, nội thất của Nhà thờ Hà Nội thể hiện nhiều yếu tố của đền chùa Việt Nam truyền thống. Đến cuối thập niên 1920, Sài Gòn thường bị đánh giá là “quá Pháp”, và điều này làm giảm sức hấp dẫn đến từ vẻ “đẹp lạ” của nó. Đối với Pierre Billotey, sự xuất hiện của Sài Gòn như một “thành phố lớn và xinh đẹp của Pháp dưới tán lá nhiệt đới” đã “phá hỏng nhiều mô tả” mà ông từng được nghe (Billotey 1929: 9).
Cách sử dụng không gian đô thị của người bản địa
Người An Nam đã sử dụng và cảm nhận không gian thành phố như thế nào? Nếu như diễn ngôn của Pháp về sự nguy nga và danh giá thể hiện qua những công trình kiến trúc hoành tráng là nhằm mục đích khơi gợi sự kính trọng và ngưỡng mộ trong lòng người dân bản địa, thì bằng chứng lại chỉ ra rằng người An Nam nhìn nhận kiến trúc kiểu Pháp không phải như một sự cao siêu, tuyệt vời của đô thị, mà theo một cách rất khác biệt. Đường phố Sài Gòn “ngập tràn những gia đình bản xứ từ nông thôn lên thành thị để ngắm cảnh.” Theo lời một nhà quan sát phương Tây, “rõ ràng là họ đang vui vẻ tận hưởng” (Sitwell 1939: 53). Khi đã chán nhìn ngắm các tòa nhà, họ “ngồi xuống bất cứ đâu, chiếm toàn bộ vỉa hè… Họ nghỉ ngơi ở đó một lúc, pha trà, sau đó sẽ tận hưởng một giấc ngủ trưa ngắn ngủi.” Cảnh sát An Nam cố gắng đuổi những người này ra khỏi vỉa hè trong vô vọng, và những cuộc tranh cãi thường xuyên nảy ra. Cho đến khi cảnh sát phải đe dọa dùng đến vũ lực, thì một nhóm người khác lại kéo đến và ngồi xuống (Sitwell 1939: 57). Cách cư xử của người dân An Nam vùng nông thôn liên tục bị can thiệp và công phá bởi những phương thức điều hành thành phố hiện đại của chính quyền.
Mô tả này đến từ một du khách phương Tây áp dụng khái niệm du lịch kiểu phương Tây cho người An Nam. Tuy nhiên, một manh mối như vậy đòi hỏi phải có nhiều câu chuyện kể chuyên sâu hơn về những cách thức sử dụng không gian đô thị. Vào thập niên 1920 – 1930, phần lớn các pha hành động kịch tính trên đường phố được dàn dựng bởi người An Nam. Giữa những năm 1920, phiên tòa xét xử Phan Bội Châu và cái chết của Phan Chu Trinh – hai nhà lãnh đạo đánh kính nhất của cả một thế hệ – đã trở thành dịp cho sinh viên biểu tình rộng rãi. Năm 1937, khi các ủy viên người An Nam của hội đồng thành phố Hà Nội đứng lên rời khỏi một cuộc họp và sau đó từ chức để biểu tình chống lại việc các ủy viên hội đồng người Pháp từ chối tăng số lượng ủy viên người An Nam, một nhóm đông đảo công nhân An Nam đã tập trung trước tòa thị chính. Cuộc đình công của ủy viên hội đồng thành phố xuất hiện trên trang nhất của các tờ báo An Nam và được xem như một phần trong cuộc đấu tranh giành nhiều quyền lợi hơn. Tuy nhiên, cơ quan báo chí Pháp tại Hà Nội lại quan tâm nhiều hơn đến những vấn đề quốc tế như việc Nhật tiến quân vào Trung Quốc, và chỉ dành một sự chú ý ít ỏi cho sự kiện này. Sự phân tách giữa người Pháp và người An Nam không chỉ thể hiện qua những phương thức sử dụng không gian thành phố khác nhau, mà rõ ràng còn góp phần hình hành hai thế giới quan và tư duy khác nhau.
Chú thích:
[1] Thuyết ưu sinh (Eugenics): ngành khoa học ứng dụng hoặc phong trào sinh học-xã hội ủng hộ việc sử dụng các phương thức chọn lọc giao phối nhằm cải thiện các đặc tính di truyền của con người thông qua gia tăng sinh sản của một vài cá thể mang đặc tính tốt và giảm bớt những cá thể mang đặc tính không mong muốn.
[2] Chủ nghĩa khoái lạ (Exoticism): một hiện tượng văn hóa mà trong đó, những vùng đất, con người và phong tục tập quán phi-phương-Tây được hình dung là thú vị, thu hút, mang vẻ đẹp khác biệt và kỳ lạ.
(còn nữa)